Ca mổ không bình thường
Truyện ngắn
Bình xách chiếc túi bạt cũ ra bìa rừng cao su. Không hiểu đây là lần thứ mấy từ khi giải phóng anh lăn lội lên vùng đất đỏ Bù Nho này. Một vùng đồi núi heo hút và quạnh hiu. Trong ánh nắng sớm, anh chăm chú nhìn những ngôi nhà tranh nằm lọt thỏm xuống thung sâu, ẩn hiện bên những hàng cao su non, dưới bóng mát dè sẻn của vài cây cổ thụ đã chết khô, đang giơ những cánh tay gầy guộc lên nền trời. Hình như đó là những dấu vết cuối cùng của chiến tranh còn sót lại. Ít ra cũng là về hình thức. Bình nghĩ.
Từ bìa rừng cao su, Bình đi qua trụ sở Ủy ban nhân xã, sau đó dừng lại trước một quán nước ven đường. Mảnh đất hoang vắng chỉ có lồ ồ và cỏ tranh những năm anh còn hoạt động nay đã trở thành một cái chợ, có thể nói là sầm uất. Điều duy nhất là để phân biệt nó và một cái chợ miền
xuôi, có chăng chỉ là những quầy thịt heo rừng, mễn, nai và cả những con cheo còn sống nhốt trong lồng đang giương to những cặp mắt ngơ ngác và hoảng sợ nhìn ra khung cảnh xung quanh.
Người chủ quán có cái giọng Huế êm dịu, mời anh:
- Mời anh vô xơi nước.
Bình bàng hoàng cả người. Cái giọng Huế ngọt như mía lùi sao mà giống giọng Trâm đến thế. Anh quay lại và suýt để rơi chiếc túi, người phụ nữ mặc chiếc quần lụa đen mỏng và cái áo bà ba màu xanh lá cây dang thong thả bước, lưng xoay về phía anh. Những nếp áo dưới ánh nắng buổi sớm mai óng lên như được may bằng một thứ nhung tơ, lấp lánh những ánh vàng tươi thắm. Tim anh đập thình thịch còn miệng thì khô đi. Trâm? Không có lẽ. Anh đứng chết trân nhìn vào cái đốm sáng mảnh dẻ kia, nửa mong chị quay lại, nửa mong chị cứ đứng nguyên như thế.
Chợt người phụ nữ quay lại. Bình thở hắt ra. Khuôn mặt Trâm vụt biến mất đi. Bình nặng nhọc ngồi xuống ghế nhấc ly nước chanh mà người phụ nữ vừa bưng ra. Không, Trâm chết thật rồi còn đâu. Chính anh ấy đã vuốt mắt cho cô ấy. Vậy mà sao mà anh vẫn không thể tin được. Hôm ấy cô cũng mặc bộ quần áo giống in như người đàn bà này…
Chiếc xe đò giật nẩy lên rồi dừng sừng trước cửa quán cắt đứt dòng suy nghĩ của anh. Từ sau ô cửa sổ nhỏ của chiếc xe, bên cạnh người phụ nữ có gương mặt như một nữ sinh thò ra một bàn tay bé tý xíu. Bình trả tiền rồi đứng lên. Anh vừa lên được xe trong dòng người đen đặc ở phía dưới, thì tiếng người phụ xe cất lên:
- Tới luôn bác tài.
Chiếc xe rồ ga rồi nặng nề chuyển mình. Bình rút khăn tay bịt mũi. Dòng bụi đỏ mù mịt lùa thốc vào xe. Có tiếng đứa trẻ ho sặc sụa và giọng cười người phụ nữ thoảng thốt kêu lên:
- Có sao không con, trời ơi, con tôi.
*
* *
Cô bác sĩ trẻ lặng lẽ nhắc ống nghe ra khỏi tai.
Người đàn ông mặc bộ đồ bệnh nhân trắng toát nãy giờ lo lắng quan sát cô bác sĩ, ngước mắt lên nhìn hỏi:
- Thưa bác sĩ, tình trạng tôi có nghiêm trọng không?
Cô bác sĩ lắc đầu:
- Không sao,sẽ qua khỏi thôi.
- Nhưng có đúng là bệnh tim không? Thưa bác sĩ.
Cô bác sĩ thoáng cau mày:
- Anh không tin chúng tôi sao?
Người đàn ông dè dặn:
- Thưa tin, nhưng…
Cô bác sĩ lặng im một giây.
- Hãy can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Kết quả khám điện tâm đồ đã cho biết chính xác là anh đau tim, vả lại, còn những cơn sốc như cơn sốc vừa mới đây của anh. Người có tri thức ít ỏi nhất về y học cũng có thể nhận ra đó là bệnh đau tim. À, mà anh có hay bị những cú sốc như vậy không?
Mặt người đàn ông có dúm lại:
- Thưa, thường xuyên. Có lần ở bệnh viện huyện người ta đã tính đưa tôi xuống nhà xác.
- Từ bao giờ?
Người đàn ông ngơ ngác:
- Cái gì từ bao giờ, thưa bác sĩ.
Cô bác sĩ cười nhẹ:
- Xin lỗi, tôi hỏi những cú sốc ấy, nó bắt đầu từ bao giờ?
Người đàn ông ngồi thừ ra. Ánh mắt như dại đi. Hình như nó bắt đầu từ ngày ở trại cải tạo. Không đúng, nó bắt đầu từ trước kia, rất xa. Trước đó y có một trái tim hoàn toàn mạnh khỏe. Bạn bè ghen với y vì những mối tình liên tục bất tận với các cô gái quanh khu vực y đóng quân. Cũng như y đã nã súng vào bao nhiêu người mà không biết run tay. Cho đến một buổi chiều, phải, cái buổi chiều chết tiệt ấy! Y căm thù cái khoảnh khắc ma quỷ đã làm thay đổi con người y. Một cái cây trải qua mười năm dông bão của chiến tranh vậy cuối cùng lại gãy. Mà vì một chuyện tầm phào. Quả tim đã phản bội y. Một người thầy cỡ bự từng dậy y: Việt cộng không phải là con người. Y đã chân thành tin như vậy. Y nhìn những người chết dưới tay y giống như những con chó bị xe cán dọc đường, không hơn. Và y lập tức quên đi để lao vào một cuộc chém giết khác. Duy chỉ có người đàn bà mà y bắn chết cái chiều ảm đạm ấy… y thở dài.
Cô bác sĩ trẻ chăm chú quan sát người đàn ông:
- Anh sao vậy, người anh tái nhợt kìa.
Người đàn ông ngẩng lên:
- Thưa không.
Nhưng người y chợt lạnh đi, vẻ hoảng loạn hiện ra trên gương mặt. Trước mặt y không còn cô bác sĩ, chỉ có người phụ nữ mà y chưa quên. Sao lại đầm đìa máu thế kia? Và cái nhìn, lậy chúa, cái nhìn mới đáng sợ làm sao, đỏ rực như khối lửa từ từ lăn lại, dường như muốn thiêu cháy y. Y rú lên một tiếng kinh hoàng và nằm vật xuống giường như một thân cây bị trốc gốc.
*
* *
Người đàn ông tỉnh dậy vào lúc nửa đêm. Cô bác sĩ trẻ mặt lấm tấm mồ hôi, nói như reo:
- Tỉnh rồi.
Y ngước cặp mắt lờ đờ nhìn lên và hiểu rằng mình đang ở phòng cấp cứu. Giọng y phều phào:
– Tôi còn sống chớ.
– Thì anh đang sống đó thôi. Nhưng có lẽ phải mổ gấp! Anh đã sẵn sàng chưa?
– Thưa tôi đã sẵn sàng. Nhưng bác sĩ đã gọi điện giúp cho vợ con tôi chưa? Lỡ bề gì… Mà sức khỏe tôi, có thể mổ sớm được không?
– Hoàn toàn có thể được. Nhưng chúng tôi muốn chờ bác sĩ mổ tim giỏi nhất của chúng tôi. Anh ấy đang đi phép!
Người đàn ông nói như nhấm nháp từng chữ một, giọng nhuốm xót xa:
- Nhưng tôi có thể chết…
Cô bác sĩ an ủi:
- Anh chưa chết được đâu. Với lại, nếu chờ được, dưới bàn tay mổ của bác sĩ ấy, khả năng sống của anh sẽ cao hơn.
Vẻ quỵ lụy hiện lên trên nét mặt người đàn ông:
- Cám ơn bác sĩ, vậy thì tôi sẽ chờ. Có thể vợ tôi…
Y nhắm mắt lại và không nói tiếp nữa. Cô bác sĩ là người đầu tiên bước ra khỏi phòng. Người đàn ông này có cái gì thật khó nắm bắt và mơ hồ tạo cho cô một cám giác khó chịu.
Cơn gió cuối ngả nghiêng hàng cây dầu trước cửa bệnh viện. Khoảng sân nhỏ phủ đầy xác lá, những trái dầu với vòng xoay duyên dáng
đang từ từ rớt xuống đất như những cánh dù tí hon. Bầu trời bỗng hực lên khi mặt trời ló ra từ một cụm mây dầy đặc góc trời.
Chiếc xe đò lắc lư, rù rì lăn bánh qua cầu Rạc.
Bình xách túi lách mình vào phía giữa xe.
Khó nhọc lắm anh mới tìm ra một khe hở giữa đống lỉnh kỉnh bao bì để đặt cái túi bạt và thở phào buông mình ngồi xuống. Người đàn bà có đứa con khóc ban nãy ngồi ở chiếc ghế sát cạnh anh ý tứ nhích mình vào trong đổi đứa bé sang bên anh. Đứa bé gái năm tuổi quay về phía mẹ đang đưa tay rụi mắt liên tục, miệng méo xệch đi, mái tóc đỏ quạch vì bụi.
Người đàn bà ôm con xuýt xoa:
- Đưa mắt cho má coi nào, tội nghiệp con tôi.
Rồi chị ghé miệng vào mắt con thổi phù một cái.
- Đỡ chưa con.
Đứa bé gật đầu.
Bình lặng im nhìn đứa bé, anh gần gừ một giây rồi lấy cái kính mắt đang đeo ở mắt ra. Anh quay sang người đàn bà:
- Chị cầm lấy đeo cho cháu.
Người đàn bà ngước mắt nhìn anh, vẻ cảm động, nhưng không giám đưa tay ra:
- Cám ơn, nhưng …
Bình cười:
- Chị cầm cho cháu đi, không sao đâu, dẫu sao tôi cũng là người lớn.
Người đàn bà miễn cưỡng cầm cái kính trên tay anh.
- Chị cũng về Sài Gòn?
- Dạ, em cho cháu đi thăm ba nó.
- Anh ấy công tác dưới đó à?
- Thưa không, nhà em đang trị bệnh.
Bình xoa đầu cháu bé, hỏi:
- Cháu là con đầu của anh chị phải không?
Người đàn bà tỏ ra mạnh dạn hơn:
- Dạ, con đầu lòng đó anh. Kể cũng hơn muộn mằn. Nhưng bọn em vừa cưới nhau xong thì giải phóng. Anh ấy đi cải tạo mới về được vài năm.
Người phụ nữ chừng như muốn nói thêm nhưng Bình chợt thấy mình hẫng đi. Sự hồ hởi cởi mở vụt biến mất. Ở vùng đất mà nhiều năm đã
chia ra hai trận tuyến đối địch này không phải phút chốc mà quan hệ của con người có thể trở thành binh thường. Người ta nói nhiều đến sự bao dung, nó dễ với người ngoài cuộc nhưng thật khó với người trong cuộc. Chỉ có người thật sự bị rứt thịt mới thấy hết nỗi đau của người bị rứt thịt. Biết đâu, chồng người đàn bà ấy chẳng phải người đã nã súng vào vợ con anh?
*
* *
Miền đất ven đương 14 này không chỗ nào gợi nhớ trong anh một kỷ niệm. Những đêm vượt ác, phá kềm, những trận đánh đồn, phá bót. Những tháng năm triền miên củ nần, củ chụp, lá bép, canh măng. Bao nhiêu người đã ngã xuống hết lớp này đến lớp khác. Bom, pháo, thuốc khai hoang làm trốc gốc cả những vùng rừng. Loa chiêu hồi ra rả suốt ngày đêm. Bình quen Trâm trong những ngày tưởng như cách mạng tiêu diệt đến tận gốc dễ ấy.
Khi đó Bình là một đội trưởng một đội công tác.
Trong những sai lầm phải trả giá, Bình không thể quên cái sai lầm phải trả giá bằng khá nhiều xương máu của anh.
Đáng lẽ thì anh phải biết, nhưng anh chủ quan. Hắn đã từng là một người dũng cảm. Cái ấn tượng ấy đã khiến anh bỏ qua những dấu hiệu báo trước sự phản bội, bắt đầu từ một tình yêu với một cô gái xóm đạo và những lần trốn tránh công tác khó khăn một cách tinh vi…
Khi Bình biết được điều đó thì đã quá muộn. Trong một chuyến đột ấp, hắn bỏ đồng đội dông thẳng về Phước Long. Hắn về hôm trước, ngày hôm sau tất cả các cơ sở đều bị đánh trốc gốc. Và, đội viên đội công tác hoạt động công khai dưới vỏ một thợ may bị bắt ở Phước Bình.
Mười anh em ở đội công tác bị lâm vào cảnh không gạo không tiền. Loa chiêu hồi từ đỉnh núi kêu xuống, từ Phước Yên kêu qua. Một trung đoàn địch bao vây kín chân núi Bà Rá. Âm mưu xúc cá ra khỏi nước của giặc tỏ ra có tác dụng.
Nửa tháng trời chỉ có ăn củ chuối với trái sung, anh em bị đái ra máu hết.
Chi bộ họp nát nước để tìm cách nhen nhóm lại phong trào. Nghị quyết được đưa ra. Bình dẫn một tổ mở đường về Sơn Giang, nhưng họ không vượt khỏi vòng vây dày đặc của kẻ thù, hai đồng chí hi sinh.
Đêm thứ hai, Bình quyết định đi một mình. Điểm anh chọn là nhà người chị ruột. Người chị ruột thấy em về thì hoảng sợ, mặt cắt không còn hạt máu, chị vái em như tế sao. Bình lặng im nhìn chị và nhìn lũ trẻ sắp lớp trong mùng, rồi buồn rầu quay ra. Lúc qua lộ, anh bị phục kích. Vết thương không nặng nhưng máu ra khá nhiều. Anh nhảy đại vào tiệm may. Đó là nhà của Trâm.
Ngọn lửa lại được nhen lên.
*
* *
Chiếc kính của Bình quá rộng, khiến đứa bé phải giữ bằng cả hai tay. Nhưng hình như nó có vẻ thích thú với cặp kính ấy: gương mặt nhỏ xíu bị cặp kính nuốt gần hết nom mới ngộ nghĩnh làm sao. Đột nhiên, đứa bé cười ré lên như bị ai thọc lét và nghênh mặt về phía bình.
Chao ơi tiếng cười.
Những lúc rỡn chơi với ba, con anh cũng có tiếng cười hệt như vậy. Mùi thơm da thịt và hơi thở quen thuộc của con bé còn phẳng phất đâu đây.
Vợ chồng anh không có một ngày cưới, đúng ra đám cưới được tổ chức âm thầm, dưới bàn thờ cha Trâm. Họ nhà gái chỉ có mẹ cô, còn họ nhà trai chỉ có đồng chí chính trị viên đại đội công tác.
Tuần trăng mật của họ trôi qua những đêm phấp phỏng lo âu. Vài bữa anh mới trở về một lần, vào lúc chín giờ đêm và ra đi vào khoảng ba giờ sáng. Công tác không cho anh cái khẳ năng chọn vẹn để làm chồng. Những đêm như vậy, vợ chồng cũng không dành được chọn vẹn cho nhau. Anh đi rồi Trâm trằn trọc cho đến sáng và tim cứ nhói lên mỗi lần nghe một tiếng súng nổ.
Dưới bàn tay của cô, các cơ sở được gây dựng trở lại. nhưng cô có nguy cơ bị lộ.
Trâm là một cô gái xinh đẹp. khuôn mặt thanh tú với cái cằm chẻ rất duyên. Cặp mắt lóng lánh dưới làn mi cong, đôi môi chín mọng lúc nào cũng hé mở. Tụi lính tráng lượn quanh cô, mê mệt, trong đó có tên ấp phó an ninh, con một chủ tiệm giàu có ở Phước Long, lịch sự, hào hoa nhưng cũng độc ác và gian ngoan có tiếng.
Trong khi đó, cái thai trong bụng Trâm cứ lớn dần lên.
Cấp trên chuẩn y việc đưa cô cứ.
Cái tin cô bỏ nhà theo trai do mẹ cô tung ra may mắn thay đã bịt mắt kẻ thù…
*
* *
Bình nhổm người nhoài ra phía sau. Chiếc xe đò vừa lao vụt qua một lô cao su và anh nhớ như in là con đường dẫn vào hậu cứ của huyện ủy. Phía bên phải, trước đây là một rừng bạt ngàn lồ ô đã được phát quang. Những hàng cây cao su mới trồng xanh mướt đã bò ra tận ngoài đường. Chính ở trong hậu cứ này, Trâm sinh con gái.
Anh run lên khi nghe tiếng khóc đầu tiên. Hình như ngay từ tiếng khóc ấy đã nẩy sinh trong lòng anh một mối tương giao khó giải thích. Đêm nằm ngủ nghe tiếng con bật khóc, anh thấy tim mình nhói lên.
Đứa bé lớn lên, lanh lợi, nhưng nước ra xanh bợt và đôi môi tái mét vì ở rừng. Chiến tranh ác liệt, những lần gặp gỡ với con của anh lại càng hiếm hoi. Phải chăng chính vì thế mà cách nó bày tỏ tình cảm với anh cũng thật ồn ào và nồng nhiệt. Nó thường ôm cứng lấy anh, lùa bàn tay bé xíu lên mái tóc rễ tre rậm cứng và áp miệng vào mặt anh.
- Sao ba đi nhiều quá vậy, lần này ba ở nhà với con luân nha.
Anh gật đầu mặc dù biết rằng mình đã phạm lỗi nói dối. Những lúc ấy, Trâm lén quay mặt đi. Còn anh thì ôm chặt con vào lòng, sờ nắn chân tay, ngửi mùi thơm da thịt và hơi thở của đứa bé. Anh xoa trên tấm lưng gầy, lần từng đốt xương sống, vuốt ve mãi cặp mông nhỏ xíu bằng bàn tay sặc mùi khói súng và sần sượng vết chai.
*
* *
Khi ngã đàn ông mở mắt ra thì phòng bệnh vắng ngắt từ lúc nào.
Y lớn lên giữa lúc Sài Gòn đang đảo điên. Theo chân Mỹ, những đăng- xinh, sách- ba mọc lên như nấm. Những kiểu thời trang lố lăng, những bản nhạc vàng vọt lan tràn vào các học đường. Thần tượng của y là những minh tinh màn bạc ăn chơi trác táng và phá phách cuồng loạn.
Không phải không có người vào lính vì bị ép buộc, nhưng với y đấy là con đường tất nhiên. Tính cách của y đã đóng vai trò chủ đạo trong việc chọn đường của y. Thi rớt tú tài 2, y vào trường võ bị và trở thành sĩ quan. Đấy là một con người luôn thèm khát một cái gì đó: ăn ngon, mặc đẹp, được trọng vọng và được yêu. Nhưng y thì không yêu
bất cứ một cái gì ngoài bản thân mình. Con người hào hoa ấy nếu ở một hoàn cảnh khác cũng có thể trở thành một con người khác. Nhưng, sự đời…
Cô bác sĩ trẻ bước vào, nhẹ như một cái bóng:
- Anh thấy trong người thế nào? Có khá hơn không?
Y gật đầu:
– Thưa, khá hơn.
Cô bác sĩ ngồi xuống giường, cầm tay hắn, bắt mạch:
- Anh yên trí tĩnh dưỡng, trước hết là đừng nghĩ ngợi linh tinh.
- Người sẽ mổ cho tôi tên gì, thưa bác sĩ.
- Bác sĩ Bình.
Người đàn ông tỏ ra bứt rứt, khó chịu. Lát sau, y đánh bạo hỏi.
- Thưa tôi hỏi không phải. Bác sĩ Bình là bác sĩ cách mạng phải không?
Cô bác sĩ nhíu mặt nhìn người đàn ông.
- Cách mạng, nhưng sao?
Người đàn ông thu mình lại vẻ bối rối và sợ sệt:
- Thưa, tôi có thể xin đổi bác sĩ khác được không?
Cô bác sĩ nhếch môi:
- Anh cần một bác sĩ không cách mạng à. Muộn rồi. Mười năm đủ để chúng tôi xoá đi cái khoảng cách đó! Còn anh? Vậy những ngày ở trong trại cải tạo anh không sống với người cách mạng sao?
Người đàn ông điếng người. Máu từ hai thái dương dường như ngừng chảy. Cô bác sĩ nhún vai nhìn vẻ mặt đầy khó khăn của người đàn ông. Nhưng chỉ trong giây lát, con người của y đã tuột khỏi tầm mắt của cô để trở về cái dáng quỵ luỵ và xun xoe cố hữu.
Đứa bé lại ho sặc sụa.
Người đàn bà rút chiếc khăn mùi xoa. Theo cái hắt xì hai cục đất đỏ như máu từ hai lỗ mũi đứa bé bắn ra.
Người đàn bà liếc nhìn Bình như nói phân bua.
- Em cũng không định đưa cháu đi. Nhưng ba cháu nhớ con quá. Lâu lắm rồi em mới trở về Sài Gòn.
Rồi chị ôm con vào lòng, kể:
- Bọn em cưới nhau trước giải phóng ít lâu. Nghe đồn trước đây anh ấy cũng mèo mỡ ghê lắm. Nhưng em cho qua. Đàn ông mà – không có gì mới là điều bất thường. Vả lại, anh ấy chuyển quân liên miên. Không có vợ bên cạnh làm sao chịu nổi. Nhưng anh ấy thương em lắm. Và ham con hết biết anh ơi. Anh ấy doạ không sanh cho anh
ấy một đứa con thì anh ấy kiếm bà nhỏ. Nếu không có giải phóng thì anh ấy kiếm bà nhỏ thật. Một đại uý biệt động trẻ đẹp như anh ấy kiếm đâu không ra vợ. Lúc đi học tập về, điều anh ấy sợ nhất là sợ em không có con. Mà luật pháp bây giờ nghiêm cấm đàn ông hai vợ. Trời ơi, anh biết không lúc em sanh con, anh ấy như người điên nói lảm nhảm xuất mấy ngày. Mừng quá. Mà anh ấy cưng con hết sức vậy đó. Một lần anh ấy suýt bóp cổ em vì sơ ý để con nhỏ té trẹo chân. Nhìn điệu bộ anh ấy, em biết, nếu con nhỏ có bề gì thì anh ấy có thể giết em mất.
*
* *
Bình đến bệnh viện sau khi đã ghé qua bưu điện thành phố đã đánh một bức điện tín về Phước Long.
Từ trung tâm Sài Gòn chiếc Vespa của anh phóng ngược về đường Trần Hưng Đạo.
Cô bác sĩ đón anh ở phòng trực.
- Trời ơi, anh Bình. Anh về bao giờ, sao không báo cho tụi em hay.
- Cám ơn, tôi về hôm qua. Tình hình có gì không?
- Tụi em đang trông anh đây. Có một bệnh nhân cần mổ gấp. Định chờ anh về. Nhưng sợ không kịp. Tụi em tính mổ hôm nay, chuẩn bị tất cả rồi, may quá. Có điều, anh có cần nghỉ ngơi không?
Bình lắc đầu:
- Không cần, tôi có thể mổ được.
Bình quày quả đi theo cô bác sĩ. Khi qua phòng đợi dành cho thân nhân bệnh nhân, anh để ý người đàn bà ẵm đứa bé đang ngồi chăm chú nhìn về phía anh. Bình ngạc nhiên nhận ra đó là người phụ nữ cùng đi chuyến xe với anh. Anh đến bên chiếc ghế.
- Chào chị.
Người phụ nữ ngẩng mặt nhìn anh.
- Dạ, chào anh…à… Bác sĩ.
- Anh ấy nằm ở đây à.?
Người đàn bà không trả lời câu hỏi của anh.
- Thưa, anh là bác sĩ Bình?
- Dạ.
- Thưa, bác sĩ đi mổ bây giờ?
Bình gật đầu.
Giọng người đàn bà chợt yếu đi:
- Thưa bác sĩ, chồng em, anh ấy…
Đôi mắt chị ngước lên khẩn cầu. Bình thấy nghẹn ở trong lòng ngực. Sao đôi mắt người đàn bà có cái nhìn giống Trâm giờ phút cuối cùng ấy thế. Anh an ủi:
- Nghĩa là chồng chị đang chờ mổ phải không? chị an tâm.
Và anh quay ngoắt đi.
*
* *
Thay chiếc áo blu, đội mũ, mang khẩu trang và rửa tay xong, Bình bước vào phòng mổ. Bệnh nhân đã được khử trùng và đặt lên bàn.
Trên tấm “ra” trắng hiện ra một cái đầu bù xù, một gương mặt có bộ dâu quay nón và đôi mắt xếch.
Không khí xung quanh chợt đông cứng lại một cách bất ngờ. Bình muốn kêu lên mà tiếng kêu tắc nơi cổ họng không sao thoát ra được.
- Đức.
- Anh buông thõng hai bàn tay.
Đại uý Đức.
Cái ngày khủng khiếp nhất trong đời anh vụt hiện ra.
*
* *
… Cánh rừng chồi nằm cạnh con sông kế bên cánh đồng ngập nước cây dại mọc lên thưa. Xa hơn nữa là cánh rừng cao su.
Trâm ôm con, bẻ từng mẩu lương khô đút vào mồm đứa bé. Trong ánh nắng chiều, da đứa nhỏ trắng bợt như vừa lôi từ dưới nước lên.
Bình ngả lưng vào gốc cây, đầu tựa lên chiếc bồng Mỹ lép xẹp. Quấn một điếu thuốc sâu kèn, nhìn đứa con qua làn khói mỏng.
Đứa bé đảo cái miệng nhỏ xíu như dài thêm ra. Miếng lương khô như tắc ở cổ họng. Trâm hốt hoảng vuốt ngực con, kêu lên:
- Anh ơi, nước.
Bình bật dậy, dốc ngược cái bình toong. Đứa bé vớ nắp ca, tu đánh ực. Đồng chí huyện uỷ viên có mái tóc hoa râm lặng thinh nhìn đứa bé, thở dài:
- Thôi ráng đi con, vài bữa nữa xong sẽ không phải ăn lương khô nữa đâu. Tội nghiệp cháu tôi.
Rồi ông xoay người, vặn lưng, cầm súng đứng lên.
- Đi thôi, qua cánh đồng là rừng cao su. Có thể coi như an toàn.
Đoàn người mang bồng lên vai. Bình ôm con đi bên cạnh vợ, nước lúp súp dưới chân.
Họ ra được giữa cánh đồng thì có tiếng trực thăng. Anh du kích đi đầu ngó nhìn trời lo lắng:
- Lẹ lên các cha.
Tiếng trực thăng lớn dần, rõ là nó đang bay về hướng cánh đồng. Bình la lên:
- Tản ra các lùm cây.
Nước bắn tung toé dưới những bước chân. Khi Trâm, Bình, đồng chí Huyện uỷ viên tới được bụi gai khá lớn thì từ bìa rừng cao su tốp trực thăng ào tới.
- Chém vè ngay, nó đổ bộ đó.
Đồng chí du kích xách súng nhón chân chạy về phía bìa rừng để đánh lạc hướng bọn trực thăng, quay lại nói như ra lệnh:
- Các đồng chí cứ phân tán ra. Không chết chùm cả nút bây giờ.
- Trâm toan đưa tay đón con . Nhưng nghĩ sao lại thôi. Cô cắn môi:
- Anh và anh Hựu chạy gấp sang lùm cây bên kia, lỡ ra…
Giọng cô nghẹn lại.
Bình thoáng do dự:
- Nhưng còn em?
Trâm nghiêm nét mặt:
- Anh nghe em. Cần phải có người sống. Lẹ lên, không còn thời gian đâu.
Khi Bình và Hựu nhào sang được lùm cây gần đó thì tốp trực thang đã sà xuống đầu anh du kích đang chạy ra hướng bìa rừng. Vừa chạy anh du kích giương súng. Chỉ thấy AK trong tay rung lên. Tiếng súng bị nuốt đi trong tiếng gầm rú của tốp trực thăng. Chỉ còn mười bước nữa là anh lọt trở lại cánh rừng nhưng khi vừa đặt chân được đến một mô đất thì anh lảo đảo té xuống. Khẩu AK văng qua một bên.
Tốp trực thăng vòng lại, rà sát mặt ruộng. Từ trên máy bay, tụi lính nguỵ lố nhố nhảy ra. Đi đầu là tên đại uý có bộ râu quay nón và đôi mắt xếch. Đại uý Đức!
Bọn lính chạy ào ào trên mặt ruộng và bắn xối xả vào các lùm cây. Chúng tiến dần về phía Bình và Hựu. Bình nhấn người xuống nước và ôm chặt con vô lòng. Đứa bé mếu máo muốn khóc, đôi mắt thất thần vì sợ hãi.
Tiếng súng M.16 ré lên từng hồi. Nước bắn tung tóa. Một loạt đạn xẹt qua đám lá trước mặt Bình khét lẹt. Đưa bé cong người lên. Bình hoảng sợ đưa bàn tay bịt miệng con. Con nhỏ giãy giụa trên tay anh nhưng không khóc.
Trâm nhìn tốp lính đang đi về phía lùm cây Bình và Hựu đang núp. Tim cô muốn ngừng đập. Bàn tay cô run rẩy rờ vào trái da láng. Vỏ thép lạnh của trái thủ pháo làm cô tỉnh táo. Một ý nghĩ loé lên. Cô trườn ra khỏi lùm cây, hét lớn:
- Tao ở đây.
Tốp lính giật mình dội ngược lại một loạt, và như một bản năng nằm bẹp xuống mặt ruộng vừa lúc trái da láng rớt xuống.
Nhưng trái thủ pháo không nổ.
Một phút, rồi năm phút. Bọn lính chồm dậy, viên đại uý gầm lên:
- Đ. mẹ không được để nó thoát.
Chúng thận trọng tiến về phía cô.
Nhưng chúng thận trọng bằng thừa. Trâm không còn thứ vũ khí nào trong tay.
Bọn lính vây Trâm vào giữa vòng tròn. Nhưng cô không nhìn thấy gì hết. Đôi mắt cô hướng về phía lùm cây trong đó có Bình và con, đúng vào lúc anh định chồm lên. Ánh mắt vừa nghiêm khắc vừa yêu thương của Trâm khiến anh như chạm phải một bức tường.
Viên đại uý mắt xếch tiến mấy bước đến trước mặt Trâm. Hắn trở đầu khẩu côn đui, Trâm chỉ kịp nhận thấy mắt phải mình nhói đau và hoa lên là cô đã té nhào xuống mặt ruộng. Viên đại uý sốc tới. Hắn túm ngực áo Trâm dựng lên. Máu từ đuôi mắt cô nhoà với bùn đất chảy ròng ròng trên má. Và từ miệng cô, như quán tính, một bãi nước bọt bay ra dính bét vào mặt viên đại uý.
Hắn giơ ống tay áo chùi, khuân mặt bỗng đỏ lựng lên. Thuận tay, hắn túm cái cổ áo bà ba sũng nước của Trâm. Chỉ nghe một tiếng soạt, hàng nút bật tung. Cô hoảng hốt đưa bàn tay lên kéo áo, trong tiếng cười hô hố của bọn lính.
Bình tái mặt. Lần thứ hai anh định chồm lên. Nhưng đứa con đang nằm trong tay anh khiến anh chùn lại. Bình như thấy quanh mình có trăm ngàn mũi kim châm. Anh cắn răng. Toàn bộ ngân cốt của con người chuyển xuống chân tay. Trước mặt anh, bọn lính đã lột nốt nút áo cuối cùng trên người cô.
Viên đại uý xoay khẩu côn đui trên tay. Đột nhiên hắn đẩy mũi súng thẳng vào người cô. Một tiếng nổ khô khốc vang lên. Trâm giật nẩy người đưa tay bịt vết thương. Đôi mắt ngửa lên nhìn trời một giây rồi
phóng về phía lùm cây bên kia. Bình ngồi chết trân. Các cơ thịt cứng lại như tạc bằng đá.
Viên đại uý chưa kịp tra súng vào bao. Hắn nhìn bàn tay Trâm từ từ rũ xuống. Trong ánh hoàng hôn, hắn thấy cả người cô như rực lên như một khối lửa. Và, từ vết thương mà bàn tay trắng xanh vừa buông, một dòng máu phụt ra phun đầy mặt hắn. Một mùi tanh lợm xộc lên khiến hắn muốn ói. Hắn giơ tay lên chùi mặt và vô tình xoè bàn tay ra. Thốt nhiên hắn rùng mình. Máu! Trời ơi, máu. Hai bàn tay hắn đẫm máu. Xung quanh hắn chỗ nào cũng máu, hắn kinh hoàng nhìn bọn lính nhe răng cười hệt như lũ quỷ sa tăng. Một mỗi sợ hãi vô cớ ập đến như làn gió độc. Hắn bỏ súng quay người vùng chạy mà vẫn cảm thấy cái thân thể rực lửa của cô gái rượt theo. Nhưng chỉ được chừng 100 thước, chân hắn tụt xuống một cái hố sâu. Hắn lảo đảo té sấp xuống mặt ruộng.
Bọn lính ngẩn người nhìn viên đại uý. Chúng chạy tới xốc nách viên chỉ huy và như lây nỗi kinh hoàng của hắn cũng phóng như bay về hướng rừng chồi.
Khi cánh đồng đã trở lại im ắng. Hựu bò sang phía Bình. Hựu ngạc nhiên nhìn dáng ngồi bất động của hai cha con. Từ hằm răng cắn chặt
trên đôi môi Bình những giọt máu tươi còn nóng chảy loang trên khuôn mặt tái xanh của đứa bé. Hựu gỡ nó ra khỏi đôi tay khô cứng của anh và kinh hoàng nhận ra là đứa bé đã tắt thở…
*
* *
Mồ hôi Bình tuôn ra ướt đẫm cả lưng áo blu. Cả phòng mổ xúm quanh Bình. Cô bác sĩ trẻ lo lắng:
- Anh Bình, anh sao thế?
Nụ cười nhợt nhạt hiện ra trên gương mặt tái xanh:
- Tôi hơi mệt.
Cô bác sĩ sốt sắng:
- Hay anh về nghỉ đi vậy, mặc bọn em.
Bình lắc đầu vẻ kiên quyết.
- Không sao. Tôi chỉ cần nghỉ một chút thôi.
Mọi người lo lắng nhìn nhau nhưng Bình đã bước lại vào bàn mổ, dáng đi kiên quyết và rứt khoát.
… Hoá ra là trái đất tròn. Cuối cùng anh và hắn lại gặp nhau. Lẽ tự nhiên ở đời là có nợ là có trả. Anh cần phải mổ xẻ để xem trái tim ấy làm bằng chất liệu gì, cấu tạo máu của nó ra sao. Mà đúng là hắn cũng có quả tim ư. Và quả tim ấy cũng đau. Nhưng cái đau của hắn là cái đau bệnh lý. Làm sao có thể so sánh với nỗi đau của anh. Bây giờ kẻ gây ra nỗi đau ấy đang nằm trong tay anh. Chỉ cần một mũi dao thôi, ai biết được. Mà nếu có biết thì cũng không ai trách anh vì món nợ thiêng liêng mà anh gánh chịu bao nhiêu năm nay. Kẻ nào gieo gió thì phải gặt bão. Đó là quy luật biện chứng của cuộc đời. Làm sao khác được. Anh cũng cần giải phóng cho trái tim, ít nhất là trong những năm còn lại của cuộc đời.
Nhưng…
Cái chữ nhưng oái ăm ấy bất ngờ hiện ra khi Bình vừa cầm con dao mổ, và số phận kẻ nằm dưới con dao của anh dường như đã được quyết định. Một làn sương mỏng bay qua đầu bác sĩ Bình. Không, anh là bác sĩ và kẻ nằm dưới là bệnh nhân. Hắn là một tên lính hoàn toàn không có vũ khí. Hắn còn có vợ con, và hắn rất thương con. Và trời ơi, sao cái ánh mắt của vợ hắn, cái ánh mắt của người đàn bà sao lại giống ánh mắt Trâm vào cái ngày cuối cùng ấy thế…
Bình cảm thấy tay dao của mình thoáng run lên.
Dưới tấm khăn trắng, thân thể người bệnh đã nằm bất động trong màn thuốc mê.
Làm sao hắn có thể hiểu nỗi đau giằng xé của người bác sĩ khi đi đến cái quyết định hoàn toàn trái ngược với lòng mình.
*
* *
Người đàn ông tươm tất trong bộ quần áo tuy hơi cũ nhưng vẫn còn khá thận trọng bước đến cửa phòng trực. Phía sau là người đàn bà dắt một đứa con gái.
- Thưa bác sĩ.
Cô bác sĩ trẻ ngẩng đầu lên:
- À, chào anh Đức. Anh ra viện phải không?
- Dạ, thưa tôi đến để cảm ơn và chia tay với bác sĩ.
- Cầu chúc anh về nhà bình an. Chúc anh chị hạnh phúc.
Người đàn ông ngập ngừng:
- Thưa bác sĩ.
- Anh cần gì.
- Thưa, tôi muốn gặp bác sĩ Bình.
Mặt cô bác sĩ thoáng buồn.
- Tiếc là anh không thể gặp anh ấy được. Anh ấy đã đi điều trị ở bệnh viện Thống nhất TN hơn hai tuần nay.
Người đàn ông im lặng một giây:
- Bác sĩ Bình bệnh gì, thưa bác sĩ.
- Có triệu chứng đau tim.
- Đau tim, vì sao?
Cô bác sĩ nhếch môi:
- Đúng, đau tim, còn vì sao ư? Điều đó có lẽ anh phải biết rõ hơn tôi. Đơn giản là anh ấy phải gánh một gánh nặng quá sức chịu đựng của quả tim anh ấy.
Người đàn ông ngơ ngác:
- Nghĩa là thế nào ạ?
Cô bác sĩ chau mày:
- Anh đã hỏi thì tôi không thể không trả lời: Vợ anh ấy đã bị một sĩ quan nguỵ bắn chết trong trận càn ở miệt Bình Dương. Đứa con gái hai tuổi của anh ấy cũng qua đời ngay trong ngày hôm đó.
Những thớ thịt trên má người đàn ông giật lên như người bị động kinh. Y đứng sững như trời trồng. Cô bác sĩ quay lại. Suýt nữa thì cô buột miệng nói ra câu: chính anh đã bắn vào trái tim anh ấy. Nhưng may là cô đã kìm lại được. Cô liếc nhìn người đàn bà đang rút khăn
lau mặt cho đứa bé và thở phào vì chị đã không chú ý đến câu chuyện giữa cô và người đàn ông.
Trong nắng sớm, những trái dầu xoay vòng nhè nhẹ rơi xuống mặt sân.
Tháng 3 – 1985
Câu chuyện chép lại
Truyện ngắn
Biết chúng tôi chuẩn bị kỷ niệm 15- 4, anh bạn tôi, trưởng phòng biên tập của một tờ báo cứ nằng nặc đòi tham dự. Anh bảo:
- Các cậu có mời hay không thì tuỳ. Nhưng thế nào mình cũng đến.
Và anh đến thật. Đúng vào lúc 3 giờ chiều ngày 15, ở một địa điểm mà chúng tôi không hề thông báo cho anh. Chẳng phải chúng tôi hẹp hòi cục bộ gì đâu nhưng quả thực chúng tôi không muốn mời ai ngoài những anh em đã từng cùng vượt Trường Sơn năm ấy. Biết vậy, anh bạn tôi đã xách theo một chai đế chánh hiệu Gò Đen và một bọc đồ ăn gói trong giấy báo. Anh cười hề hề”
- Lễ ra mắt để nhập hội đây. Các cậu muốn độc quyền cũng chẳng được đâu. Mấy hôm nay người ta đang rần rần đi xem triển lãm đường mang tên Bác đấy. Nhưng mình muốn gặp những con người bằng xương bằng thịt. Cũng là một cách đi thực tế.
Thực ra là tôi biết rõ thâm ý của anh. Anh đi tìm cảm xúc hơn là đi tìm thực tế. Anh đang chuẩn bị viết bài cho kỷ niệm Trường Sơn. Tài liệu khá đủ rồi. Nhưng mấy tiếng đồng hồ ngồi với chúng tôi dường như đã làm thay đổi ý định của anh. Có lẽ anh thấy những điều hiểu biết của anh còn ít ỏi quá. Bởi vậy, lúc tan cuộc, anh túm lấy tôi yêu cầu:
- Này cậu viết cho mình một bài đi. Không đòi hỏi gì lớn lắm đâu. Cậu cứ kể kỷ niệm như cậu vừa kể là ăn khách rồi. Nếu được ngày mai cậu tới toà soạn, mình sẽ ứng trước cho cậu năm trăm.
Tôi ngẫm nghĩ một giây. Không hẳn là vì số tiền mà anh đã hứa, mặc dù nó cũng cần. Điều quan trọng là đầu tôi đang sôi những hào quang của kỷ niệm. Trong lúc cao hứng, tôi nhận lời.
Bạn tôi nắm chặt tay tôi:
- Chịu heng. Còn điều này nữa. Chậm nhất là thứ bảy cậu phải nộp bài. Hôm nay là thứ hai. Kịp chớ?
Tôi nhẩm tính rồi gật đầu:
- Chắc là kịp.
Nhưng tôi đã hối hận vì cái “chắc là” của tôi. Ba bốn ngày đêm tôi không viết được lấy một chữ gọi là có. Bao ý nghĩ hay ho trong đầu cứ chờ tôi đặt bút xuống là vụt biến mất. Những kỷ niệm kể ra thì dí dỏm là thế mà khi đưa vào trong giấy đột nhiên trở thành những bộ xương khô, không còn một chút sức sống nào. Thấy tôi vò một lúc hàng chục trang giấy, vợ tôi cằn nhằn:
- Khi không lại mua cái cực vào người. Thôi, anh mang trả lại tiền cho họ đi.
Đúng là tôi cũng đã nghĩ đến chuyện rút dù. Nhưng khi điện thoại lại cho anh bạn, anh kiên quyết không cho tôi rút. Anh nói là số chủ nhật đã chừa chỗ cho bài báo rồi và động viên tôi đôi ba câu. Anh bảo đó là bài “ chốt” của số kỷ niệm đường mang tên Bác. Nghĩa là tôi đã cưỡi lên lưng hổ. Không còn cách nào khác. Tôi lại vùi đầu vào bàn. Rồi sau hàng xấp giấy bị xé nát thì ngọn bút bất kham tỏ ra biết điều hơn. Người ta bảo không thể trông chờ vào cảm hứng mà phải làm việc. Lao động là sẽ tạo ra cảm hứng. Có lẽ đó cũng là trường hợp của tôi. Trong giây phút trăn trở như thế tôi chợt nhớ đến một kỷ niệm. Đấy là một câu chuyện nhỏ mà tôi đã gặp ở dọc đường Trường Sơn. Chuyện một con người và một chiếc xe. Một người trong vô số người. Một xe trong vô số xe. Những hạt cát vô danh âm thầm góp gió vào biển cả để tạo nên chiến thắng cuối cùng. Và tôi bắt tay vào viết.
*
…Chiếc xe của chúng tôi đột ngột dừng lại. Cậu lái xe thò cái đầu bù xù ra ngoài, gương mặt trắng trẻo có hàng ria con kiến ngửa lên nhìn trời rồi rụt cổ lại quát:
- Máy bay.
Tất cả chúng tôi lao ra khỏi xe lăn vào các hầm hố hai bên đường. Tôi nghe tiếng phản lực gầm rú và nhiều tiếng nổ lớn phía trước, cách chúng tôi không xa xen lẫn tiếng “phằng phằng” hấp tấp của vài tràng trọng liên. khoảng trời trước mặt chúng tôi rực lên với những ánh chớp lấp loá.
Chúng tôi trở lại xe sau khi trận bom đã kết thúc. Không gian trở lại yên vắng. Hình như ánh trăng có vẻ lạnh và trong hơn. Nhưng chúng tôi được lệnh phải chờ. Phía trước có bom nổ chậm. Không ai bảo ai chúng tôi đều ngửa mặt lên nhìn trời thở dài. Chờ ở đây cũng có nghĩa là đùa giỡn với cái chết.
Nhưng chúng tôi gặp may. Một công binh cao lớn khoác tấm vải dù với cái mũ sắt có vẻ quá chật trên đầu, đi ngược lại phía đoàn xe, thông báo:
- Đường bị dội bom, nhưng chỉ hỏng nhẹ. Không có bom nổ chậm. Các anh có thể lên đường.
Đoàn xe rồ máy lao đi.
Phía trước, chúng tôi vẫn gặp lác đác các tốp công binh và thanh niên xung phong. Càng đi lên cây cối càng thưa thớt. Qua làn bụi mờ mịt tôi nhìn thấy khung cảnh tan hoang của chiến tranh. Những cụm rừng vàng úa hoặc cháy đen thốn mắt. Rải rác hai bên đường, nằm chơ vơ những xe tải bẹp rúm, dằng trước, đằng sau, bên phải bên trái chi chít những hố bôm sâu hoắm như gương mặt của một người bị bệnh đậu mùa. Đó là túi đựng tất cả các loại bom hiện đại. Đủ các thứ của nền văn minh Hoa Kỳ: bom bi, bom đìa, bom chụp, bom lân tinh… Từ những cánh sắt bổ nhào, hoặc theo từng tầng toạ độ ngày đêm đổ xuống đây không ngớt như những cơn mưa dầm nhiệt đới. Mặt đất trơ trọi như bị lột da. Màu xanh thực vật bị lửa bom đẩy lùi ra hai bên đường hàng cây số.
Con đường đã hiện lồ lộ trước mặt kẻ thù. Không thể giấu và cũng không cần giấu giếm nữa. Như ván bài đã lật ngửa, người ta đã lật ngửa, người ta đấu nhau bằng trí thông minh và lòng can đảm. Người lính làm quen dần với tiếng nổ và cái chết. Các đội thanh niên xung phong và công binh cứ vài tháng sau khi điều đến đây là quân số đã vơi đi mất một phần. Hy sinh có, mất sức chiến đấu vì điếc hoặc rối loạn thần kinh cũng có…
Trong tiếng rù rì leo dốc của đoàn xe, cậu lái xe của chúng tôi, một anh chàng trẻ măng mặt búng ra sữa, quay mặt lại phía sau hét tướng lên:
- Chúng ta đã tiến vào “con đường sấm sét” rồi. Ai có bông thì nhét vào tai kẻo rách màng nhỉ đấy.
Tôi thò đầu nhìn ra. Xe chúng tôi đang leo qua một quả đồi thấp. Những tốp công binh hiện ra trên mặt đường hì hục lấp các hố bom. Một tốp khác đang loay hoay lôi lên một quả bom nổ chậm máy bay địch vừa ném trong trận bom trước. Trong tiếng nhạc trầm trầm của động cơ xe, tiếng cười nói vang lên, lẫn trong tiếng quốc xẻng bổ chan chát vào đất đá.
*
* *
Khi đám mây màu tro dài lê thê trôi qua, bầu trời bừng sáng lên vằng vặc. Ánh trăng Trường Sơn lạ lắm, nhất là vào những lúc lặng bom. Bầu trời xanh ngắt, xanh như đang lên da non, cao lồng lộng. Ở khoảng khắc yên tĩnh hiếm hoi đó, tôi ngửi thấy đâu đó phảng phất có mùi hoa lan rừng. Trong ánh trăng xanh diệu vợi hương thơm của hoa
như thanh khiết hơn, những chiếc lá rừng tươi thắm hơn, còn kính xe trước mặt tôi cứ sáng lêm lấp loá như dát bằng bạc.
Đấy là xe chúng tôi chuẩn bị vượt qua “cua chữ A”.
Lái xe đã từng qua Trường Sơn không có ai có thể quên được cua chữ A. Chung quanh cái trọng điểm nổi tiếng là đường hẹp lắm cua nhiều dốc này, đường nham nhở, cái chỉ còn là bộ sườn gỉ nát, bánh bẹp gí hay bị tháo gỡ hết.
Xe chúng tôi đi ở cuối đoàn. Qua tiếng máy cậu lái xe trẻ đang say sưa huýt sáo bài “ Tiểu đội xe không kính”. Tôi ghé mắt nhìn ra ngoài. Chiếc xe leo lên một quả đồi trần trụi trọc lóc như cái đầu của một ông sư.
Trước kia ở đây có lẽ cũng nhiều cây xanh. Nhưng bây giờ trước mặt tôi chỉ còn trơ lại những khoảng đất cháy, những thân cây cháy đen còn bốc mùi khói bom khét lẹt. Phía bên trái đường là một bờ vực dốc đứng, phía dưới lấp lánh một con suối nhỏ.
Cậu lái xe trẻ chợt ngừng huýt sáo, nghiêng tai, rồi đột ngột thắng xe lại.
Tôi giật mình:
- Máy bay hả?
Cậu lái xe lắc đầu:
- Không, nhưng… Cậu lái xe đưa tay chỉ về phía trước – Tôi nghe hình như có tiếng người khóc.
Tiếng máy xe ngừng bật. Chúng tôi cũng giỏng tai lên. Đúng là có tiếng khóc thật. Tiếng nức nở theo gió đưa tới làm người tôi gai lên. Không xa chúng tôi, trên đỉnh dốc, có một cô gái đang ngồi cạnh chiếc xe tải.
Chúng tôi bước ra khỏi xe. Ý nghĩ của tôi đầu tiên là chiếc xe vừa bị trúng đạn. Đó là chiếc xe zin ba cầu nước sơn còn mới, tuy thành xe bê bết bùi đất. Bạt phủ trên mui xe vẫn còn nguyên vẹn và lành lặn. Đầu máy hình như vẫn còn nóng bốc lên sực nức mùi xăng.
Tôi lặng im. Không, chiếc xe không trúng bom, bằng chứng là nó vẫn đậu rất nghiêm chỉnh bên lè đường bên phải. Vòng là nguỵ trang che kín cả xe bằng một bàn tay cẩn thận và đầy tinh thần trách nhiệm. Qua những kẻ hở của tấm bạt tôi còn thấy những thùng các tông nguyên vẹn không hiểu bên trong đựng gì, xếp đầy lên tận nóc. Hoàn toàn không có một dấu bẹp nào trên thân xe. Chỉ có biển xe là không còn . Có lẽ nó đã bị bom bứt mất.
Bây giờ tôi mới chợt để ý đến người khóc. Đây là một trong vô số những thanh niên xung phong bình thường mà ta có thể gặp bất cứ một cây số nào trên đường Trường Sơn. Cô khoảng hai mươi, hai mốt tuổi, tóc dài, đen nhánh. Cô mặc chiếc áo bộ đội rộng thùng thình, dáng mảnh khảnh và khuôn mặt còn non tơ như học trò, đến nỗi tôi không hiểu vì sao cô gái này lại có mặt và có thể trụ lại ở Trường Sơn. Dưới chân cô, nằm lăn lóc cái mũ cối bặc phếch, xẻng và chiếc bi đông nước.
Thấy phải an ủi cô bé này đôi điều, tôi bước lại đặt tay lên vai cô:
- Cô bé, sao cô khóc?
Cô gái ngẩng mặt lên, đưa ống tay áo chùi nước mắt, rồi chỉ tay vào ca bin xe:
- Cái eng trong nớ…
Tôi nhíu mày;
- Eng nào?
- Eng lái…
- Eng lái làm sao?
Cô gái buông tiếng nấc:
- Eng…eng chết rồi.
Tôi sững lại trong khi cậu lái xe đã lanh lẹ mở cửa xe. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi một người lính trẻ đang úp đầu lên vành lái, đầu nghẹo sang một bên. Mái tóc xoà ra đang ngủ. Một tay anh vẫn khuỳnh ra nắm thành vô lăng, còn tay kia buông thõng ở cần thắng. Ngay phía trước anh, mặt kính chắn bị một lỗ thủng nhỏ, có lẽ do một mảnh bom xuyên qua. Xung quanh chỗ thủng, mặt kính bị rạn nứt hết. Từ ngực người lính, dòng máu còn đang ri rỉ chảy ra, loang đỏ dưới sàn xe. Phía sau thành buồng lái treo toòng teng một cái võng dù, một cái mũ tai bèo và một khẩu AK báng gấp còn xanh màu thép.
Tôi tần ngần nhìn cô gái:
- Anh ấy là người yêu của cô phải không?
Cô gái đã thôi khóc. Nhưng mắt vẫn còn đỏ hoe. Cô lắc đầu lia lịa, giọng nói chưa hết xúc động:
- Không phải. Lần đầu tiên em gặp anh ấy. Hình như eng ấy mới chạy trên đường này lần đầu. Tội nghiệp eng, eng còn trẻ quá.
Đúng là người lái xe còn trẻ thật. Anh khoảng độ hai mươi lăm. Không, có lẽ 23 hay 24 tuổi. Khuôn mặt anh dễ thương, đôi má bầu bĩnh còn vương những sợi lông tơ thật mịn. Đôi môi hình trái tim, hơi hé ra phảng phất một nét cười. Dưới hàng lông mày cong như hai
cánh chim, đôi mắt khép lại trong hàng mi con gái.
Chúng tôi thận trọng dựng người lái xe thẳng dậy và xem xét vết máu nơi túi áo trái. Một mảnh bom rất nhỏ đã xuyên qua lớp kính chắn cắm vào vùng tim thanh xuân của anh. Anh đã hy sinh trong khoảnh khắc, như bắt đầu một giấc ngủ dài, thanh thản. Ở Trường sơn người ta luôn chuẩn bị trước cho một cái chết bất ngờ…
Cô thanh niên xung phong nghẹn ngào kể với chúng tôi:
- Lúc chiếc F.105 ấy nhào xuống, em ngồi ở hố bom tê. Trong tiếng bom nổ, chớp loè lên, em nghe thấy tiếng rì rì của zin ba cầu. Em bò ra khỏi hầm, vừa lúc cái xe ni leo dốc, chạy tới. Em hơi ngạc nhiên. Sao chiếc xe chạy chậm rứa và hai bánh xe lại chệnh choạng như người say rượu.
Cô gái đưa tay vuốt mấy sợi tóc loà xoà trước trán. Trong ánh trăng, khuôn mặt của cô trông trắng xanh như một khuôn mặt của một người thiếu máu. Cô kể tiếp: - Em linh cảm có điều gì xảy ra. Em chạy tới đón đầu chiếc xe vừa lúc nó tấp vô lề đường. Em leo lên bậc, ngó vô ca bin thấy người eng gập mạnh xuống vô lăng nghe cái phập. Em hoảng hốt giật mạnh cửa nhảy vào bên eng. Tội eng quá. Mắt thì mở trừng trừng nhưng tim đã hết đập rồi. Em vuốt mắt cho eng. Eng chết mà còn cười cười như đang mơ ngủ.
Cô gái ngưng nói. Cô bưng mặt. Không nghe thấy tiếng khóc. Chỉ thấy hai bờ vai mảnh của cô rung lên.
Chúng tôi lặng im. Còn biết nói gì nữa với cô gái ấy. Một tiếng khóc giữa rừng Trường Sơn của một người lính đối với một người lính khác không quen biết. Và nếu không có trái tim dễ xúc động của
cô thanh niên xung phong thì chúng tôi đã thản nhiên đi qua, như bao chiếc xe trước tôi đã đi qua. Chúng tôi không có lỗi. Bởi vì trên con đường Trường Sơn này, một chiếc xe nằm lại dọc đường cho dù bên trong có một người chết chăng nữa là chuyện xảy ra thường xuyên, đến độ làm người ta thản nhiên. Ở đây con người đã quá quen với lửa, máu, tàn phá và chết chóc rồi.
Chúng tôi dựa lưng người lính trẻ vào thành ghế phía sau. Người bạn cùng đi với tôi khẽ nâng bàn tay buông thõng ở cần thắng lên, bắt mạch. Anh bỏ mũ, cúi đầu, nói vể bùi ngùi:
- Có lẽ vết thương đã trúng tim. Chết hẳn rồi.
- Có giấy tờ gì không?
- Để xem đã.
Bạn tôi nghiêng đầu xem xét. Ánh đèn pin của anh lướt trên túi áo đẫm máu của người lính. Anh thò tay vào đó nhẹ nhàng rút ra một mẩu giấy cháy dở, sau đó là một cái thẻ bìa cứng. Ánh đèn pin của anh dừng lại tấm thẻ.
- Gì vậy anh?
- Thẻ quân nhân.
Tôi hỏi ngay:
- Thế tên anh ấy là gì, quê ở đâu?
Tôi hỏi câu đó vì bỗng nhiên thấy trách nhiệm của mình trước sự hy sinh thầm lặng của người lính đang nằm đây. Tôi hy vọng sẽ có dịp kể cho gia đình và người thân về cái chết của anh. Những người thân bao giờ cũng khắc khoải muốn biết con em mình dã chết ở đâu và chết như thế nào nhưng những dòng báo tử thường bao giờ cũng rất công
thức và ngắn ngủi.
Bạn tôi cầm tờ giấy hồi lâu rồi lắc đầu, trao cho tôi:
- Tiếc quá, không đọc được.
Tôi đón mảnh giấy từ tay bạn tôi. Cả hai đều loang vết máu. Trên tấm thẻ, vết thủng do bị mảnh bom xuyên qua nuốt hết tất cả. Dưới khoảng sáng của đèn pin đơn độc, tôi chỉ đọc được chữ “ Lê”… Hải Hưng. Tất cả những gì chúng tôi được biết chỉ có vậy. Người lính ấy họ Lê và quê Ở Hải Hưng.
Tôi đưa đèn pin rọi sang mẩu giấy thứ hai. Đó là một phần còn lại của một bài hát được nắn nót chép tay trên một tờ giấy pơ- luya. Mảnh giấy cháy nham nhở, chỉ còn sót lại vài nốt nhạc và một câu hát mà tôi không nhớ rõ lắm là của nhạc sĩ nào:
“ Những đêm Trường Sơn ta đã đi qua bao chặng đường vất vả. Đạn réo bom rơi mưa rừng xối xả…”
Cậu lái xe trẻ mau miệng, nãy giờ trầm tư không nói gì, chợt quay sang tôi:
- Chúng ta chôn anh ấy chứ?
Không đợi tôi kịp trả lời, cô thanh niên xung phong xua tay, giọng đã rắn rỏi trở lại:
- Không cần, các eng cứ đi cho kịp đoàn. Đây là việc của bọn em. Bọn em sẽ khâm liệm eng và báo cho đơn vị của eng biết.
Chúng tôi ngã mũ vĩnh biệt người lính trẻ và từ giã cô gái. Còn bao nhiêu quãng đường ác liệt nữa. Phía trước đang chờ chúng tôi. Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn của cô thanh niên xung phong và như chợt hiểu ra sức mạnh tiềm tàng trong cơ thể mảnh mai của cô gái bé nhỏ này.
Và, tôi cứ ân hận mãi là mình quên không hỏi tên cô gái.
*
* *
Tôi đã viết trong một đêm, thậm chí chẳng cần suy nghĩ. Những dòng chữ cứ như tự nó chạy trên trang giấy, và tôi chỉ là người sắp xếp, không cần một cố gắng nào. Tôi nộp bài cho anh bạn tôi.
Bạn tôi vồ lấy đọc. Tôi nghĩ là mình đã thoát nợ. Nhưng anh bạn tôi có vẻ chưa vừa lòng.
Bạn tôi im lặng vài giây:
- Truyện xúc động. Đúng là không trải qua thì khó viết được. Nhưng…
Tôi sốt ruột:
- Nhưng sao, không in được phải không?
Bạn tôi cười:
- Sao lại không in chứ. Chỗ đã chờ rồi. Nhưng giá mà cậu viết thêm được cho một đoạn.
Tôi giãy nảy:
- Thôi thôi, cho tôi xin. Tôi đã hết sức rồi. Không viết được nữa đâu. Không được.
Bạn tôi vẫn kiên nhẫn thuyết phục:
- Tôi cam đoan là ông viết được. nó sẽ nổi chủ đề hơn cho ông xem. Không cần nhiều, chỉ độ 500 chữ thôi. Ông cố dựng lại cho tôi giây phút cuối cùng của người lính trẻ.
Tôi thở dài. Đã đâm lao thì phải theo lao thôi. Vả lại hình như bạn tôi có lý. Và tôi nhận lời.
Vậy là sau phần chép lại câu chuyện có thật một trăm phần trăm, tôi bắt tay vào một công việc có vẻ văn chương hơn: hư cấu. Nếu như nó không đạt yêu cầu thì bạn đọc rộng lượng cứ coi như câu chuyện của tôi đã kết thúc ở phần đầu.
*
* *
Người lính nhấn ga lao đi. Chiếc F105 bổ nhào xuống như một tia chớp.
Một cột khói dựng lên ở mép đường bên phải. Chiếc xe sựng lại như chạm phải bức tường. Mặt đất rung lên bần bật.
Sau tiếng bom thứ hai người lính nghe có gì nhói lên ơ vùng ngực. “ Vậy là mình bị thương vào chỗ hiểm rồi” – Anh nghĩ thầm khi thấy cái cảm giác buồn buồn, lành lạnh lan ra dưới da. Anh bất giác sờ tay lên. Máu đã ra ướt đẫm ngực áo quân phục. Người lính bỗng thấy con đường trước mặt mình nhoà đi, chân tay nặng như đeo đá, tựa như có một màn thuốc mê đang úp chụp xuống mặt.
Nhưng trong cái ý nghĩ nửa mê nửa tỉnh anh vẫn nhớ là mình đang leo giữa một triền dốc. Phía bên kia là vực thẳm. Chỉ cần một giây rời tay lái thôi là chiếc sẽ lao xuống biển cả lẫn hàng thành đống sắt vụn.
Mắt người lính vẫn hoa lên. Một cảm giác mệt mỏi loang dần khắp cơ thể. Rồi ngay sau đó, cơn đau bật dậy. Anh nghiến chặt hai hàm răng để cố ghìm một tiếng rên. Đôi mắt đã rối loạn của anh vẫn cố gắng hướng tia nhìn về phía trước. Hai bàn tay rã rời vẫn ráng sức giữ chặt tay lái.
Dưới những ngón tay đang cứng lại dần, không còn tuân theo sự điều khiển của ý chí, chiếc xe vẫn chệnh choạng lao đi. Sau cùng nó đã tới đỉnh dốc.
Người lính sắp gục xuống chợt chồm dậy lần cuối cùng. Trong cái ý thức sắp tắt của anh, một tia sáng chợt loé lên: “ Không được, cần đưa xe sang phải. Dừng ở đây thì đường sẽ tắc.” Và, bằng tất cả sức tàn của mình, anh nghiến răng tập trung toàn bộ cân não thực hiện cho được cái cố gắng cuối cùng phi thường ấy.
Sau đó, anh kéo tay thắng cho xe dừng lại và gục đầu xuống vô lăng. Gương mặt đọng lại một nụ cười mơ hồ, mãn nguyện. Như không kịp suy nghĩ rằng mình sẽ hy sinh. Trong cái khoảnh khắc ngắn ngủi giữa cái sống và cái chết con người trẻ tuổi ấy đã bộc lộ toàn bộ nhân cách của mình như một hệ quả tất yếu của người lính.
Những người không quen trong đó có cô thanh niên xung phong mau nước mắt sẽ chôn cất anh, ở cái nơi mà chiếc xe không biển số dừng lại. Một mảnh đất hoang vu ầm ào bom đạn khác hẳn cái làng nhỏ sầm uất của anh ven bờ sông Kinh Thầy.
Không có cánh đồng xanh mướt và những đàn cò trắng lả cánh bay trong chiều hoàng hôn rực lửa. Không có cả đôi mắt chờ đợi của bà mẹ. Người ta sẽ huy động chiếc xe còn nguyên vẹn kia vào cuộc chiến đấu chung. Đồng đội sẽ thay anh tiến về phía trước. Sẽ không ai biết tên anh. Sẽ không ai biết hành động tuyệt vời thầm lặng cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi của anh. Sẽ không có một tấm huy chương, một dòng chữ nào trên mặt báo. Nhưng tất cả những điều đó, đối với người lính trẻ, đâu có nghĩa gì. Anh không rõ cuộc đời sẽ ra sao,
nhưng lúc ấy anh biết mình đã chết vì cái gì và cho cái gì.
Có thể trên nấm mộ của anh cũng chỉ có một cái bia gỗ ghi vỏn vẹn dòng chữ: “ Nơi đây đã yên nghĩ một trong những anh hùng vô danh”. Mưa gió thời gian sẽ làm cho bia gỗ phai màu. nhưng có một điều không bao giờ phai màu: đó là nụ cười vĩnh cửu của người lính trẻ, lúc anh gục xuống bên vô lăng, giản dị và lặng thầm như đất.
Tháng 5 – 1985
Chiếc va ly của người khách lạ
Truyện ngắn
Chiếc xe đang phóng nhanh trên đường để lại đằng sau một dòng bụi đỏ mù mịt, bất chợt giảm tốc độ.
Phía trước hiện ra một người thanh niên mặc bộ quân phục bạc màu, giơ nón cối tỏ ý vẫn xe. Dưới chân anh, bên lề đường là cái va ly vải bạt cũ kỹ đỏ quạch bụi đất.
Người lơ xe thò đầu ra ngoài trong một thoáng rồi quay lại phía tài xế:
- Tấp vô đi.
Người tài xế chặc 50 đang phì phèo điếu thuốc ba số, đặt lên vòng lái, lơ đãng quan sát người thanh niên mặc quân phục, giọng có vẻ không mấy mặn mà:
- Thôi cho qua. Lính thì ăn cái giải mẹ gì. Chắc lại xin quá giang.
Người lơ xe ngập ngừng:
- Nhưng chả có va ly, may ra…
Người tài xế sốt sắng:
- Va ly hả? Ờ, chắc là tiêu hay cà phê. Mày phải hù cha ấy dữ vào. Mẹ! Bữa nay xui xẻo quá trời… Từ sáng sớm tới giờ chưa kiếm được xu trà nước nào hết trơn.
Chiếc xe ép vào bên lề đường và thắng kít lại. Người lơ xe chạy ngược lại chỗ đứng của người thanh niên. Lát sau anh ta khệ nệ quay lại với chiếc va ly bằng vải bạt.
Đặt chiếc va ly xuống chân, anh quay sang người thanh niên bật quân phục, mặt lạnh tanh:
- Ba trăm.
- Hả?
Người thanh niên dừng sững như người vừa chạm phải bức tường, anh ngơ ngác:
- Ba trăm, từ đây tới Thủ Dầu Một?
- Với anh thì không xa nhưng với chiếc va ly của anh thì xa. Nhưng tôi sẽ đảm bảo cho anh qua các trạm gác trót lọt. Từ đây đến Thủ Dầu Một còn hai trạm kiểm soát. Toàn trạm “ác ôn” cả.
- Nhưng tôi là thương binh…
Người lơ xe nhếch mép:
- Cha nào lên đây mà chả là thương binh. Giấy giả, người giả thiếu gì. Chỉ có cà phê là thiệt.
- Nhưng chiếc va ly của tôi…
- Thôi đi cha, đừng có qua mặt tôi. Tôi đã chạy xe đường này cả mấy năm trời rồi chớ có phải bữa một bữa hai đâu. Cha ăn thịt cũng phải để cho người khác gặm xương với chớ.
Người thanh niên nói như quát lên:
- Tôi không mang hàng lậu.
Người lơ xe có vẻ xìu xuống, phẩy tay:
- Điều ấy thì anh dùng để giải thích với trạm kiểm soát. Nhưng cứ cho là anh không mang hàng lậu đi thì ba trăm cũng đâu phải là mắc. Từ đây về Thủ Dầu Một anh tính đã bao nhiêu cây? Chiếc va ly của anh thuộc loại cồng kềnh ít nhất nó cũng chiếm mất hai chỗ ngồi của xe. Với một chỗ ngồi của anh nữa là ba. Vả lại ba trăm bây giờ cũng chỉ hơn một ký lô thịt. Nhưng tuỳ anh thôi. Đi hay không thì dứt khoát để xe tôi chạy.
Người lái xe rít nốt hơi thuốc cuối cùng. Bực dọc ném mẩu thuốc khỏi xe, nói vọng xuống, giòng hằn học:
- Không đi thì thôi dẹp mẹ nó đi cho rồi. Cù cưa cù nhày hoài, chịu hết nổi. Mẹ kiếp ba trăm mà cứ làm như cục vàng không bằng. Tới luôn, mày.
Một người phụ nữ ngồi cạnh cửa sổ, ngó đầu ra ngoài:
- Thôi, cho người ta đi. Bộ đội lấy đâu ra tiền. Đánh đĩ trăm phương thì cũng để một phương mà đi lấy chồng chớ.
Người tài xế nhìn người phụ nữ giọng hậm hực:
- Chuyện làm ăn của người ta ai mượn mấy bà xía vô, lảng xẹt.
Anh bộ đội liếc nhìn con đường vắng hai bên hun hút rừng cao su, vẻ băn khoăn. Anh lục trong các túi quần và áo gom được hơn ba trăm,
sau khi nhét số tiền lẻ còn lại vào ngực anh thận trọng xách chiếc va ly lên xe. Người lơ xe liếc nhìn anh đang loay hoay tìm chỗ ngồi, hắng giọng:
- Tôi không chịu trách nhiệm về chiếc va ly của anh đâu nhé!
Anh bọ đội xốc cổ áo, ánh mắt lộ vẻ vừa lành lùng vừa mỉa mai:
- Khỏi lo!
Chiếc xe đò nhảy chồm chồm trên mặt đường lồi lõm ổ gà, chòng chành như con thuyền đang vuợt sóng lớn.
Anh bộ đội ngồi im lặng lơ đãng nhìn ra những dải đường cao su màu xanh.
Người phụ nữ ngồi bên cửa sổ, nãy giờ vẫn chú ý quan sát người khách có chiếc va ly, với thái độ thiện cảm, chợt lên tiếng:
- Anh bộ đội này.
Anh bộ đội giật mình như bừng tỉnh.
- Chị gọi tôi?
Người phụ nữ gật đầu:
- Dạ.
- Chị cần gì?
Người phụ nữ thoáng đỏ mặt:
- Không tôi chỉ muốn hỏi chuyện thôi… có phiền anh không?
- Anh bộ đội lắc đầu mỉm cười.
- Quê anh ở Phước Long đấy à?
- Quê tôi ở Tân Uyên.
Người phụ nữ tò mò:
- Anh là bộ đội thật chứ?
Anh bộ đội im lặng một giây tỏ vẻ không bằng lòng:
- Bộ chị thấy tôi giống bộ đội giả hay sao?
Người phụ nữ không ngờ anh bộ đội lại đặt ra câu hỏi ấy. Chị bối rối:
- Không phải vậy, nhưng tôi không thấy anh mang lon.
Anh bộ đội thở phào như chút được gánh nặng:
- Chị có lý đấy. Tôi giải ngũ đã mấy năm nay. Tôi là thương binh. Ra quân, tôi trở về quê hương làm ruộng. Bao năm qua chiến đấu, lại quen chỉ huy, trở về làm một con người bình thường, sống cuộc sống bình thường kể cũng khó thật.
- Trước đây anh chiến đấu ở đâu?
- Ở chính Phước Long. Tôi là một đại đội trưởng một đại đội của lực lượng bộ đội tỉnh.
- Chắc anh cũng quen bộn người ở thị xã phải không?
Anh bộ đội gật đầu, trầm ngâm:
- Cũng nhiều. Kể cả người sống lẫn cả những người đã mất.
- Nghĩa là anh rất hay lên đây?
Anh bộ đôi im lặng. Anh đưa mắt nhìn ra ngoài. Khuôn mặt khắc khổ như bỗng già đi thêm vài tuổi. Lát sau anh nói khẽ:
- Không. Đây là lần đầu tiên tôi trở lại miền đất này từ sau
ngày giải phóng. Có rất nhiều người mau chóng quên đi hay cố tình quên đi những năm tháng gian lao cũ. Tôi không thuộc loại ấy. Nhưng công việc cuốn lấy tôi. Những dự định về thăm bà con, đắp điếm nấm mộ cho bạn bè ban đầu rấy sôi sục, sau cứ nguôi dần, mặc dù tôi đã hứa hẹn rất nhiều kể cả với vong linh người đã khuất. Cũng có thể tôi không bao giờ quay trở lại, nếu như…
Anh bộ đội chợt im lặng. Anh đăm đăm nhìn người phụ nữ. Vẻ dò xét. Liệu anh có cởi mở quá chăng? Nhưng những băn khoăn ấy chợt vụt biến đi lúc anh bắt gặp ánh mắt đồng cảm của người phụ nữ. Ánh mắt như thể nhìn thấu tâm can anh khiến anh không thể dừng lại. Vả lại, dường như bên trong anh cũng có nhu cầu được bộc bạch.
Câu chuyện tiếp tục:
- Vâng đúng, có thể là tôi không trở lại nếu như không có một chuyện xảy ra. Cách đây mấy hôm, có một người khách đến tìm tôi. Chị có đoán ra người khách nào tìm tôi không? Một phụ nữ lạ, có dẫn theo một đứa con trai 14 tuổi. Một người hoàn toàn tôi chưa gặp. Ban đầu tôi ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì tôi sửng sốt cả người.
Chị ấy là một người vợ bạn thân của tôi đã nằm xuống một cánh rừng cao su miền đông. Làm sao không sửng sốt được khi người phụ nữ ấy từ Hà Nội dắt con đi hàng ngàn cây số lặn lội vào đây để tìm tôi. Chị bảo sao? Làm sao chị ấy biết tôi à? Cũng không khó gì. Chả là trước lúc hy sinh, anh ấy trao lại cho tôi toàn bộ kỷ vật, địa chỉ của gia đình và yêu cầu tôi nếu anh có mệnh hệ gì, lúc giải phóng hãy giúp anh mang toàn bộ những di vật ấy về cho vợ con anh. Đúng là tôi
đã hứa, một lời hứa danh dự. Nhưng tôi chỉ thực hiện được một phần nhỏ của lời hứa ấy. Tôi gửi thư cho chị và toàn bộ di vật của anh qua đường bưu điện. Đường sá xa xôi. Tôi yên tâm rằng mình làm như vậy là đúng. Và tôi quên bức thư. Tôi không nghĩ rằng bức thư thì đến nhưng toàn bộ di vật của anh, do sơ xuất nào đó của bưu điện đã không đến nơi. Chị không nhận được những kỷ vật cuối cùng của anh.
Anh bộ đội thò tay vào túi áo quân phục lấy bịch thuốc rê. Anh run run cuấn một điếu thuốc sâu kèn. Anh quẹt diêm châm lửa hít một hơi dài và thò đầu nhả khói ra cửa sổ. Vài sợi khói mỏng, khen khét bay về phía người phụ nữ khiến chị hơi nhăn mặt. Nhưng chỉ trong một thoáng thôi. Anh bộ đội liếc nhìn người phụ nữ trong một giây. Anh rít thêm một hơi dài nữa, sau đó quả quyết ném ném mẩu thuốc còn lại qua cửa sổ.
- Và chị ấy đã tìm vào đến chỗ tôi. Mấy ngày phép đã dành đi tàu xe và loay hoay ở Sài Gòn gần hết. Nghe chuyện, tôi bỗng thấy căm giận mình, căm giận một cách thực sự. Chị ấy an ủi tôi nhưng tôi biết rằng không thể nào lương tâm hết bị rằn vặt về hành động vô trách nhiệm kia. Để chuộc lại một phần lỗi lầm chuẩn bị đưa hai mẹ con đi thăm mộ anh. Nhưng đùng một cái ở Hà Nội một bức điện bay vào chỗ tôi, nhắn chị ra gấp vì bà mẹ chị ở nhà bị bệnh đột ngột đang hấp hối. Tôi đành phải đưa hai mẹ con chị về Sài Gòn để đi ra. Trước khi đi chị ứa nước mắt nắm tay tôi và khẩn thiết yêu cầu tôi giúp cho chị một việc cuối cùng. Tôi đã hứa danh dự. Lần thứ hai tôi hứa danh dự như mọi khi tôi đã hứa trước vong linh người bạn đã quá cố…
Chiếc xe đột ngột dừng lại.
Lề đuờng lố nhố người và ngất ngưởng những bao bì.
Người lơ xe nhảy xuống đường. Sau một hồi cãi cọ, mặc cả, đám bao bì được thẩy lên mui.
Người lơ xe đưa mấy người khách trông có vẻ là thương lái lên sắp chỗ ngồi. Chiếc xe đã chật cứng chỉ còn duy nhất một chỗ trống là chiếc va ly của anh bộ đội.
Người lơ xe chỉ chiếc va ly nói với hành khách:
- Đó, ngồi lên đó.
Người hành khách mới, một người đàn bà xồn xồn, tay lủng lẳng cái túi tiền to tướng ghé đít xuống.
Anh bộ đội như bị điện giật. Anh tái mặt nhưng giọng vẫn nhỏ nhẹ:
- Bà ơi, không ngồi lên đấy được đâu.
Bà hành khách đưa mắt nhìn lơ xe. Anh lơ xe hất hàm:
- Bà cứ ngồi xuống đó đi, tội và đâu tôi chịu.
Rồi anh ta quay sang phía anh bộ đội:
- Cao nhất va ly anh đựng cà phê chớ gì mà anh làm giữ vậy. Cà phê về thì anh cũng thảy đi chớ anh đâu có uống mà lo.
Người khách lại toan ném đít xuống.
Anh bộ đội quắc mắt:
- Tôi đã nói với anh là tôi không đi buôn. Trong ấy không có cà phê. Nhưng nó còn quý hơn ngàn lần cái cà phê của anh.
Người lơ xe liền đổi sắc mặt:
- Quý hơn cà phê. Hừ, vậy thì vàng hột xoàn hay là bạch
phiến. Nhưng dù cho là những thứ đó đi chăng nữa thì ngồi lên cũng có hư hao mất mát gì đâu. Thôi được, nhưng lúc trước anh chỉ trả tiền cho có một chỗ ngồi.
Anh bộ đội nhếch mép:
- Anh nói lạ. Hồi đầu anh nói chiếc va ly của tôi choán mất hai chỗ ngồi. Kể cả cho tôi nữa là ba. Như vậy là tôi đã trả tiền cho ba chỗ ngồi.
- Tôi nói vậy nhưng không phải vậy. Tiền cái va ly của anh là tiền ba ga. Tôi ăn tiền ba ga. Tôi nể anh nên mới cho anh để va ly trong xe. Vả lại bấy giờ xe rộng. Bây giờ anh quyết định đi: Một là anh để cho khách ngồi lên va ly, hai là tôi sẽ đưa nó lên mui, ba là mời anh…
Anh bộ đôi kiên quyết:
- Không được.
Có tiếng xì xào nổi lên trong xe. Người lơ nhìn khắp lượt vẻ phân bua, vẻ như muốn tìm sự đồng tình:
- Đấy bà con xem. Đường đông mà khách nào cũng như ổng thì làm sao xe chạy.
Anh bộ đội thấy không khí có vẻ căng thẳng. Anh cau mày suy nghĩ một phút rồi quyết định:
- Anh đưa va ly cho tôi.
Đón chiếc va ly từ tay người lơ xe, anh bộ đội thận trọng kê nó lên đùi… người phụ nữ ngồi cạnh nhìn anh, mắt thoáng ve băn khoăn.
chiếc xe rồ ga, vụt đi.
Anh bộ đội ngồi im như vậy rất lâu. Mãi sau anh mới quay sang người phụ nữ:
- – Chị thấy tôi hơi kỳ cục phải không?
Người phụ nữ lắc đầu:
- Không, nhưng tôi không hiểu lắm. Chắc là anh có lý do…
Anh bộ đội tay ôm chiếc va ly, mắt đăm đăm nhì ra ngoài xa. Những hàng cao su xanh mướt mới trồng nối đuôi nhau chạy mãi về phía sau. Xa hơn nữa là những mái nhà tranh còn mới chạy lúp xúp ven sườn đồi. Người phụ nữ chăm chú nhìn anh bộ đội, tò mò gợi chuyện:
- Khi hồi anh nói anh hứa với chị vợ bạn anh nột việc. Chắc anh đã thực hiện lời hứa đó.
Anh bộ đội gật đầu như cái máy:
- Dà, đó là lý do chính khiến tôi trở lại Phước Long. Anh ấy và tôi chiến đấu rất nhiều năm ở những vùng rừng này. Lúc đó ở đây còn hoang vu lắm. Trừ những đồn điền cao su của bọn Pháp để lại, ven đường 14 hình như không có dân. Cứ của chúng tôi trong rừng lồ ô tuốt đằng sau những lô cao su mới trồng kia kìa. Gọi là cứ nhưng chúng tôi cũng không ở cứ nhiều đâu. Thường thì nay đi đánh chỗ nọ mai đi đánh chỗ kia. Có lần đơn vị tiếp nhận một số tân binh C tức là một số anh bộ đội mới ở ngoài Bắc vào. Tôi quen với một anh tên là Lai ở đường Lò Đúc Hà Nội. Anh còn trẻ, đẹp trai, hát rất hay. Anh có giọng nói như chim hót. Chúng tôi thích nghe anh nói vì anh nói nhanh, hơn nữa còn dùng những từ rất lạ khiến bọn tôi đôi lúc không hiểu được hoặc hiểu lầm. Có lần sự hiểu lầm suýt dẫn đến hậu quả không hay. Lần ấy, chúng tôi đi hành quân. Đường phải đi qua
Đắc Quýt. Trước khi vượt sông, tôi hỏi anh:
- Anh có biết lội không?
Anh đáp – Biết.
- Vậy thì cởi áo quần chuẩn bị qua sông. Tất cả đồ đạc đem bọc vào bịch ni lông. Sang đến nơi, chúng ta có thể mặc quần áo mà không bị ướt.
Anh làm theo. Chúng tôi qua sông.
Tôi đi đầu, Lai đi thứ hai, phía sau nữa là anh em khác.
Hết đoạn đường nước cạn, đến chỗ nước sâu, tôi bắt đầu lội. Chưa được hai mét, tôi đã nghe a một tiếng . Vừa quay lại, tôi chỉ thấy cái thấp thoáng cái đầu anh trong nước lũ. Bịch ni lông đồ đạc xoay tròn đang trôi veo veo. Tôi hốt hoảng ném đồ đạc nhào theo. Vài anh em khác cũng lao theo tôi. Khi lôi được Lai lên bờ thì anh đã gần kiệt sức.
Chúng tôi hô hấp nhân tạo, đốt lửa lên cho anh sưởi. Khi anh đã tỉnh, tôi mới ôn tồn trách anh:
- Sao không biết lội anh không nói để tụi tôi còn tính.
Anh nặng nhọc thở ra:
- Ai bảo nước sâu thế mà các ông không nói với tôi.
- Thì nước sâu người ta mới phải lội, nước cạn cần gì phải lội.
Anh phì cười:
- Vậy là chết tôi rồi. Đáng lẽ các anh phải hỏi tôi có biết bơi không. Lội là chân phải chấm đất kia.
Tất cả chúng tôi cùng cười. May mà không ai việc gì chỉ mất
cái đồng hồ và một ít đồ đạc.
Sau vụ ấy tôi và anh thân nhau.
Anh ấy thích ứng chiến trường rất mau. Chỉ vài tháng anh đã trở thành người lính thực thụ.
Anh thường hay nói chuyện về vợ con, tiếc là mấy bức ảnh để trong gói đồ đạc đã bị trôi mất nên tôi không biết mặt chị.
Chúng tôi chiến đấu bên nhau mấy năm. Có nhiều kỷ niệm chung. Nhưng tôi nhớ nhất trận đánh ở Phước Bình. Đấy cũng là trận đánh cuối cùng của anh…
Người phụ nữ thoáng rùng mình, đột ngột cắt đứt câu chuyện:
- Anh nói trận đánh Phước Bình à?
Anh bộ đội ngạc nhiên nghe giọng nói thảng thốt của người phụ nữ:
- Dạ. Nhưng… Chị làm sao vậy?
Người phụ nữ quay ra cửa sổ rút túi lấy vội chiếc khăn, nói thác đi:
- Không sao cả anh. Chà đường hôm nay bụi dữ. Xin anh cứ kể, tôi nghe đây.
Anh bộ đội tiếp tục:
– Đại đội chúng tôi được giao nhiệm vụ làm đại đội chủ công đánh chiếm chợ Phước Bình và phải giữ nó trong một ngày một đêm, nhử quân địch ở Phước Long và chi khu Phước Bình để quân ta phục kích ở vòng ngoài tiêu diệt.
Đích thân tư lệnh trưởng quân khu đã xuống giao nhiệm vụ cho chúng tôi.
Chúng tôi bàn bạc rất kỹ trong ban chỉ huy, động viên bộ đội và lên phương án tác chiến. Lúc đó tôi là đại đội trưởng còn Lai là chính trị viên.
Đên ấy chúng tôi mắc võng nằm bên nhau. Không đứa nào nói về trận đánh quyết liệt sắp tới. Anh Lai kể về vơ con. Đột nhiên trong câu chuyện anh bảo tôi:
- Trận đáng ngày mai sẽ không dễ dàng đâu. Có thể cả hai thằng sẽ không trở về. Cũng có thể chỉ còn một thằng. Trong trường hợp thứ nhất thì không nói làm gì. Còn trường hợp sau xảy ra thì mình đề nghị một giao ước thế này.
Tôi lo lắng nhìn anh, linh cảm điều gì không lành:
- Giao ước thế nào?
- Mình đề nghị thằng nào còn sống đến ngày giải phóng sẽ đếm gia đình thằng kia để kể lại toàn bộ sự tình. Cậu nhớ kỹ địa chỉ mình chứ.
- Nhớ, nhưng không phải để làm công việc ấy đâu. Sau giải phóng, mình và cậu sẽ cùng về thăm vợ con cậu.
Anh mỉm cười:
- Tất nhiên là mình cũng mong thế. Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Quy luật nghiệt ngã của nó đâu có buông tha ai. Cậu gật đầu đi để mình yên tâm.
Tôi gật đầu nhưng lòng không vui. Xưa nay chưa bao giờ anh nói đến chuyện chết.
Đêm hôm sau chúng tôi tấn công vào chợ Phước Bình. Một trung đội bảo an ở đó tan rã. Chúng tôi vào chợ không tốn một giọt
máu nào. Nhưng đấy chỉ là bước đầu chủa một trận đánh dữ dội.
Thấy chúng tôi đào hầm có vẻ muốn trụ lại, Dân đổ xô về Phước Long. Một ông chủ tiệm phở đến gặp tôi nói:
- Tôi biết anh em ở lại. Chúng tôi là dân, chúng tôi không chống đỡ với bom đạn được. Nhưng thức ăn có sẵn đấy, anh em thích ăn gì cứ ăn. Tôi không tiếc đâu.
Suốt đêm đó gần như chúng tôi không ngủ. Sau khi trí trận địa chiến đấu là những giây phút chờ đợi căng thẳng. Chúng tôi đã từng đánh những trận lớn nhưng chưa bao giờ phơi áo giữa ban ngày ở một địa
Bảy giờ sáng, một chiếc đầm già bay lượn vè vè trên đầu.hình trống trãi sẵn sàng làm mồi cho bom đạn của kẻ thù như lần này.
Tám giờ một đại đội địch từ Phước Long xuống đi hai hướng phản kích vào chợ.
Khi tôi vừa nghiến răng hô bắn thì các họng súng nhất loạt rung lên. Tôi ngỡ như mình đang nằm giữa chảo bắp rang với cát. Không khí nóng bỏng lên. Tôi nhìn sang Lai. Anh đang kê khẩu súng AK trên vai. Khói đạn nám đen khuôn mặt đẹp trai, trắng trẻo. Tôi vẫn phục cách bắn súng của anh. Anh bắn như một người làm vườn đang tưới hoa. Một màn đạn rải đều trước mặt làm đội hình của địch ùn lại nhốn nháo rồi nằm bẹp xuống. Nhiều tên lao đầu chạy thối lui. Khẩu súng của anh rộ lên theo chúng như có mắt. Bọn giặc ngã xuống như những thân cây đổ.
Một đại đội địch bị đánh tan tác, ôm đầu máu chạy về phía Phước Long.
Rồi đại đội thứ hai. Sau lần phản kích lần thứ ba, chúng tôi tranh thủ củng cố công sự vì biết thế nào địch cũng dùng phi pháo để huỷ diệt.
Đúng như dự đoán. Pháo địch từ các nơi đã gầm lên, chúng bắn toạ độ từ vòng ngoài đến vòng trong và cuối cùng quay vào giữa chợ.
Bụi đa, gạch ngói, đất cát tung lên.
Một số hy sinh.
Một số bị lấp hầm.
Sau trận mưa pháo, địch cho một đại đội nữa phản kích.
Tiếng AK, B40, M16, M17… lại rộ lên.
Nhưng chúng lại bị đánh bật ra.
Lúc này thương vong đã hơi nhiều.
Chúng tôi gom số thương binh vào một căn hầm chắc chắn nhất chờ trận đánh kết thúc vì lúc này không thể nào đưa ra được.
Chưa xong việc chúng tôi đã nghe tiếng trực thăng phành phạch bay lên. Tôi vừa nhảy lại được xuống hầm thì đã nghe “cào đùng”. Chúng bắn hoả tiễn. Vừa nghĩ vậy thì nắp hầm của tôi đã trống bốc. Tôi bị vùi một nửa người. Tay trái bị thương máu chảy ròng ròng. Tôi dùng một tay bới đất leo lên. Trực thăng vẫn tiếp tục bắn. Lúc tôi chuyển được sang hầm khác thì cũng chính là lúc địch phản kích lần thứ năm.
Lần này chúng tôi vẫn giữ được chợ.
Chúng tôi động viên nhau bằng giá nào thì cũng phải được cho đến đêm. Bấy giờ đã là xế chiều.
Phút im lặng căng thẳng. Tôi nhìn anh em bộ đội. Mặt mày ai nấy cũng hốc hác, sạm đen, quần áo tả tơi. Lai nhìn tôi nở một nụ cười mệt mỏi, hàm răng lấp loá như hằm răng của một người da đen, giọng anh khan đặc:
- Ráng lên, chỉ còn mấy tiếng nữa là chúng ta hoàn thành nhiệm vụ.
Sau phút im lặng, chiếc đầm già như một con chim ác vè vè lượn trên đầu chúng tôi. Lại bắt đầu đây. Tôi nghĩ thế. Khi tôi vừa hô “ coi chừng phản lực” thì một tốp F5 đã lao về phía chúng tôi như những con diều hâu. Với một sự lanh lợi đầy hăm doạ, chúng bổ nhào thẳng xuống chợ. Tôi nhìn rõ những quả bom dưới bụng từng chiếc máy bay.
Nhưng đụn khói ngùn ngụt bốc lên.
Những ngôi nhà còn sót lại bay tứ tung lên không trung.
Xung quanh tôi đen màu khói bom. Tai tôi điếc đặc. Chính lúc ấy tôi nghe một tiếng “ục”. Vài tích tắc sau, mặt đất rung lên, đến nỗi tôi nằm lịm đi một lúc, cảm thấy đầu óc rỗng tuếch như không có gì bên trong.
Khi tỉnh lại, tôi thấy người rã rời. Bên cạnh tôi là một hố bom rộng hoác. Tôi hất những tảng đất trên mình và không hiểu tại sao mình vẫn còn sống. Phản ứng đầu tiên của tôi là đưa mắt tìm kiếm Lai. Ngôi nhà cạnh anh đã biến thành đống gạch vụn đổ nát. Lai bị đất vùi kín nửa người. Anh nằm nghiêng trong hầm . Bên cạnh anh là người chiến sĩ liên lạc. Mắt người lính còn mở trừng trừng. Tôi vội bò sang hầm hai người. Đồng chí liên lạc đã chết, một mảnh bom ghim
vào giữa trán anh. Từ đó ứa ra một vệt máu còn tươi. Lai vẫn còn thở.
Tôi lấy tay bới đất, moi xung quanh anh sau đó vòng tay qua lưng anh ra sức kéo. Trên ngực áo anh lớp đất thấm máu chưa khô. Tôi thận trọng đặt xác người liên lạc sang bên, nắm lấy vai anh và ra sức kéo. Mặt anh tái đi. Răng anh nghiến chặt. Vừa kéo được anh lên thì một loạt bom nữa trúng vào trung tâm chợ. Cả không gian rung lên.
Lai mở mắt. Anh thều thào nói với tôi:
- Cậu chạy lo cho anh em đi, để mặc mình. Chúng sắp phản kích nữa đấy. Cả ban chỉ huy giờ chỉ còn mình cậu thôi. Khi chúng vào, mình có sẵn hai khẩu súng AK và một khẩu súng ngắn đây. Nhưng… – anh đưa mắt nhìn tôi khẩn khoản – nếu mình có mệnh hệ gì, cậu nhớ lời hứa chứ.
Tôi ứa nước mắt gật đầu nhưng vẫn nói với anh:
- Không, cậu sẽ sống, phải sống chớ.
Rồi tôi bò vội đi. Tôi muốn ở lại bên anh, cùng anh bắn đến viên đạn cuối cùng nhưng tôi không thể. Phía sau còn cả một đại đội.
Máy bay địch đã ngừng ném bom. Nhưng tất cả các cộng sự đã trốc hết. Chúng tôi tận dụng mọi chướng ngại để chuẩn bị đón tiếp địch. Có thế đấy là một đợt phản kích cuối cùng.
Đúng là đợt phản kích cuối cùng thật.
Bốn đại đội địch được tung ra. Nhưng lực lượng bên ngoài đã chi viện cho chúng tôi. Số địch còn lại cũng không vượt qua được cửa tử.
Lai đã bắn hết bốn băng đạn AK, hai băng đạn súng ngắn. Nhưng đúng vào lúc bọn địch thúi lui thì tôi thấy tiếng súng của anh ngừng bặt.
Khi chúng tôi kéo lại phía anh thì trời đã nhá nhem tối. Không gian đã im ắng. Lai đã ngừng thở. Một viên đạn xé toang ngực anh. Anh nằm im, vẻ mặt thanh thản như vừa bắt đầu một giấc ngủ dài…
Anh bộ đội dừng lại.
Người phụ nữ cắn môi, kín đáo quay đi, dường như là để dấu một giọt nước mắt.
Chiếc xe đò đậu xịch lại ở trạm gác cuối cùng.
Người lơ xe chạy về phía trạm kiểm soát, lát sau anh quay lại cùng với một thanh niên dáng chừng là nhân viên thuế vụ.
Người thanh niên lên xe đưa mắt nhìn khắp lượt. Mắt anh dừng lại ở chiếc va ly trên tay anh bộ đội. Ngập ngừng một lát anh nói với anh bộ đội:
- Xin lỗi, tôi là cán bộ thuế vụ.
- Dạ, anh cần gì?
- Xin phép được xem chiếc va ly của anh.
- Anh có giấy khám va ly không?
Anh cán bộ thuế vụ vẫn kiên nhẫn:
- Xin lỗi, tôi không khám va ly. Tôi chỉ kiểm tra xem có ai mang hàng lậu không?
Anh bộ đội lắc đầu:
- Vậy anh gõ nhầm cửa rồi. Tôi không buôn lậu.
- Có gì làm chứng là anh không buôn lậu?
Anh bộ đội thò tay vào túi áo, rút ra chiếc thẻ thương binh.
Anh cán bộ thuế đọc cái thẻ như muốn nhấm nháp từng chữ một. Lát sau, anh nói, giọng lấp lửng:
- Rất tiếc đây không phải là một bằng chứng. Nhiều khi…nó chỉ có giá trị như một chiêu bài.
Anh bộ đội nghiêm sắc mặt:
- Anh có thấy là anh đã đi quá xa rồi không. Nhưng anh cần bằng chứng gì?
- Xin lỗi, tôi chỉ muốn được kiểm tra va ly.
Anh bộ đội kiên quyết:
- Không được, tôi đã nói là tôi không có hàng lậu trong va ly.
Anh cán bộ thuế nhún vai:
- Nếu vậy thì tôi không có cách giải quyết nào khác. Chắc anh không muốn ở lại hoặc để chiếc va ly ở lại.
Anh bộ đội nhăn mặt:
- Tại sao tôi phải ở lại/
- Vì tôi không biết va ly của anh chứa gì. Biết đâu anh mang theo cà phê. Anh cũng biết cà phê là thứ hàng quốc cấm chớ?
Anh bộ đội lặng im một giây, vẻ bực bội hiện rõ nét mặt:
- Tôi xin hứa danh dự với anh là trong va ly không có cà phê.
- Công việc của chúng tôi hoàn toàn không thể căn cứ vào lời hứa danh dự… Nhưng – Anh cán bộ thuế tò mò: – Anh có thể nói trong va ly có cái gì được không?
Anh bộ đội lắc đầu căng thẳng:
- Không thể được.
Anh cán bộ thuế lắc đầu:
- Vậy thì vô phương. Anh là thương binh chắc anh hiểu đường lối quá rồi. Anh không giúp chúng tôi làm nhiện vụ thì ai sẽ giúp chúng tôi.
Anh bộ đội ngồi bần thần một lúc lâu. Anh quay sang người phụ nữ và bắt gặp vẻ mặt bối rối của chị. Linh cảm với không khí tò mò và cả khó chịu của những người xung quang, anh đành đi đến quyết định cuối cùng:
- Thôi được, tôi sẽ mở va ly. Nhưng nếu như va ly không có hàng lậu thì anh chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc làm xúc phạm này.
Anh cán bộ thuế gật đầu.
Chỉ có người phụ nữ thấy trong ánh mắt của anh bộ đội có màu hơi nước.
Mọi người tò mò xúm quanh. Người lái xe đứng hẳn lên bên tay lái.
Chiếc va ly bật nắp.
Không có cà phê.
Chỉ có một bọc ni lông trắng lớn chiến gần trọn va ly. Đằng sau tấm ni lông hiện ra một bộ hài cốt.
Mọi người trong xe chết lặng đi.
Anh cán bộ thuế cúi đầu như một phạm nhân đứng trước vành móng ngựa. Anh kéo chiếc mũ ra khỏi đầu. Mãi sau mới lắp bắp được một câu:
- Xin lỗi, tôi không biết. Tôi không ngờ, không thể ngờ…
Người phụ nữ ôm mặt.
Anh bộ đội lập tức đóng nắp chiếc va ly lại. Chỉ nghe tiếng gió lùa trên nóc rừng cao su non.
Lát sau anh bộ đội mới đánh tan sự im lặng, giọng anh khàn hẳn đi:
- Hài cốt của một người bạn chiến đấu của tôi đã hy sinh trong trận đánh chiếm chợ Phước Bình cách đây mười mấy năm. Tôi làm theo yêu cầu của người vợ goá. Chị đã vừa vào đây, chưa kịp lên thăm anh ấy thì đã phải ra Hà Nội ngay vì bà mẹ chị bị bệnh đột ngột sắp qua đời.
Người lái xe ngồi phịch xuống ghế, chết lặng vì bất ngờ. Mãi sau ông ta mới lầu bầu được một câu:
- Trời ơi, quỷ ám tôi rồi hay sao đây. Chở hài cốt người chết trên xe. Chắc tôi mạt quá.
Người phụ nữ đang ngồi ôm mặt bỗng bật dậy. Mặt chỉ đỏ bừng như đang lên cơn sốt:
- Ông im đi. Ai cho phép ông nói bậy. Đó không phải là người chết. Đấy là một con người. Một- con- người hơn tất cả mọi người tâm thường, ông hiểu chứ.
Người lái xé quay lại. Anh bắt gặp đôi mắt quắc lên của chị phụ nữ. Ông hốt hoảng rồ máy và lần đầu tiên trong đời thấy tay lái của mình lạng đi.
Anh bộ đội nhìn tấm lưng to như tấm phản và cái gáy đỏ như gà chọi của người lái xe. Anh liếc sang chị phụ nữ vẻ mặt chưa hết xúc động. Trong óc anh bỗng nảy ra một liên tưởng kỳ lạ về sự dung
tục và thiêng liêng. Tất cả như thức, tỉnh táo đến chua xót. Có lúc anh đã quên, quên một cách vội vàng. Vì rối ren bấn bíu với công việc? Hay vì một cái gì đó âm thầm nhỏ nhen không có hình thù? Cũng có thể là cả hai.
Chiếc xe vẫn lăn bánh trên con đường đất đỏ. Người phụ nữ đã bớt xúc động. Chị nhìn con đường trôi vụt về phía sau và cảm giác như đang ngồi giữa một hạt hồng cầu trong mạch máu, những hạt hồng cầu không ngừng phải chống đỡ với bệnh tật để giữ cho tươi nguyên màu đỏ của cuộc đời.
Không ai biết người phụ nữ nghĩ gì. Cũng không ai kể cả anh bộ đội biết rằng chính chị cũng có người chồng đã hy sinh ở trận Phước Bình năm ấy.
Tháng 9 – 1984
Không phải là ảo ảnh
Truyện ngắn
Nghĩa nhìn một lần nữa quanh sân ga đã vắng ngắt chỉ còn lèo tèo mấy người. Anh thất vọng. Vậy là Hạnh không ra đón. Chắc điện tín đánh vào chưa đến nơi. Khi bước chân lên tàu anh đã cẩn thận nhờ cậu em đánh cho một bức điện tín về Sài Gòn. Anh ngước nhìn lần cuối sân ga rồi xách va ly. Phải chờ xe buýt cuối cùng. Bây giờ mà vớ phải mấy “chú” hon đa ôm thì bảo đảm là bị chém đứt cổ.
Bỗng anh nhìn thấy hai người phụ nữ một già một trẻ đi phía trước anh. Bà già xúng xính trong chiếc áo bà ba màu mỡ gà. Người trẻ hơn, chừng là con gái, lặc lè vì cái bụng gần đến tháng sinh. Trên tay bà già lỉnh kỉnh nào giỏ, nào xách. Người phụ nữ xách một chiếc va ly nhỏ, chắc cũng khá nặng vì người cứ lệch về một bên và chốc chốc lại phải dừng để nghỉ. Bà mẹ thỉnh thoảng lại ngước nhìn một cái quanh sân ga. Vẻ nóng ruột.
Thấy cảnh tình của bà mẹ và cô gái, Nghĩa đắn đo một lúc rồi quả quyết bước dấn lên, vài phút sau anh đã đến trước mặt hai người. Anh hắng giọng:
- Xin lỗi, bà và chị cũng về Sài Gòn?
Bà mẹ giật mình. Bà dừng hẳn lại ném về phía Nghĩa một cái nhìn thăm dò, hơi soi mói. Cái giọng bắc ngọt như mía lùi:
- Dạ, cậu cần chi.
Nghĩa mỉm cười:
- Nếu cháu không lầm thì bà và chị đang chờ người ra đón.
Bà mẹ im lặng. Ánh mắt nghi ngờ vụt tăng lên. Bà liếc một cái thật nhanh quanh sân ga và chỉ yên tâm quay lại khi bắt gặp một bộ sắc phục của một người cảnh sát. Cô gái mau mắn.
- Dạ, tụi tôi chờ người, nhưng chắc điện không tới nơi. Mẹ tôi sợ lộn xộn nên cứ đòi vắng người rồi mới ra cửa.
Bà mẹ nhìn cô gái tỏ vẻ không bằng lòng. Con gái ruột để ngoài da thế đấy. Quen biết gì mà chưa khảo đã xưng.
- Sao bà và chị không đi xích lô?
Bà mẹ đang còn phân vân chưa biết trả lời như thế nào thì cô gái đã buột miệng:
- Tôi bị móc túi sạch trơn rồi. Đành phải ra xe buýt thôi. Kể cũng hơi phiền, hai người đàn bà, nhưng biết sao?
Nghĩa hỏi khẽ:
- Bà và chị về đâu?
Cô gái:
- Mẹ con tôi về Trần Hưng Đạo. Đoạn gần trường kỹ thuật Cao Thắng.
Nghĩa cười, anh thân mật đề nghị:
- Xin lỗi, thế thì để tôi giúp một tay. Tôi cũng về gần đấy – anh quay ra phía gần bà mẹ- bà cho phép chứ?
Bà mẹ đắn đo. Nhưng nghĩ đến đoạn đường ra bến xe buýt, bà miễn cưỡng gật đầu.
Nghĩa xách hai tay hai va ly lại thêm túi xách của bà mẹ rảo bước lên phía trước. Không quay lại nhưng anh vẫn cảm thấy ánh mắt đầy nghi ngờ của bà ở phía sau lưng. Anh khe khẽ lắc đầu, thầm nghĩ: Quả thật bà ta không thể tin ở một điều tốt đẹp nữa chăng? Cái niềm tin ở con người?
Lâu ngày không đi bộ, lại xách nặng nên ra đến bến xe buýt, lưng áo Nghĩa đầm mồ hôi. Anh rút khăn lau nhẹ lên vầng trán. Người phụ nữ nhìn anh ái ngại:
- Phiền anh quá. Nếu không có anh thật mẹ con tôi loay hoay không biết thế nào?
Nghĩa tự nhiên:
- Không sao. Tại lâu quá không đi bộ đấy thôi. Chắc là chị ít đi ra ngoài phải không? Anh quay sang người khách đang chống cằm ngồi trên va ly – Xe buýt sắp đến chưa bác?
Người khách ngẩng mặt lên:
- Một chuyến vừa đi tức thời. Nhưng nghe nói còn chuyến chót.
Sau khi sắp chiếc va ly của mình vào cạnh đống đồ đạc của hai mẹ con, Nghĩa bước ra đường nhóng mắt về phía Sài Gòn. Lát sau anh quay lại. Rút dép ngồi xuống cạnh bà mẹ, anh nói chuyện:
- Bà và chị đi Hà Nội về?
Bà mẹ nhìn anh, đôi mắt đã có chiều dịu xuống:
- Dạ, à không… chúng tôi đi xa hơn.
- Chắc là về thăm quê phải không ạ?
Bà mẹ khẽ lắc đầu. Người phụ nữ nhìn Nghĩa, như cân nhắc. Bắt gặp ánh mắt tin cẩn của anh, chị thở dài:
- Chồng tôi đang học tập cải tạo ở Vĩnh Phú.
Im lặng một phút. Người phụ nữ quay nhìn ra đường. Bà mẹ không nén được, nói khẽ:
- Chồng nó là con trai của tôi. Đã bảo đừng đi, bụng mang dạ chửa. Vậy mà cứ khăng khăng không chịu. Năm ngoái nó đã ra một lần. Lấy nhau chưa có con thì giải phóng. Biền biệt sáu bảy năm.
Nghĩa ái ngại:
- Anh ấy là sĩ quan cao cấp à?
Bà mẹ buồn bực:
- Sĩ quan cao cấp gì nó, vừa mới tốt nghiệp trường đại học Đà Lạt ra một năm. Trong khi đó bao nhiêu đứa hơn cấp hơn chức lần lượt ra về.
Bà thấy anh ấy sống thế nào?
Đôi mắt bà sáng lên:
- Nhờ trời, khoẻ. Chỉ có điều hơi buồn. Nó căn dặn hỏi han tôi đủ điều. Nó là đứa con hiếu thảo. Và lành như con gái ấy. Tôi đảm bảo với cậu là nó không dám giết một con thú chứ đừng nói con người.
Nghĩa chăm chú nhìn bà mẹ, thăm dò:
- Anh có nói anh ấy sống thế nào không?
Bà mẹ thở dài;
- Tuyệt nhiên không. Nó vốn kín tiếng lắm. Nó chỉ căn dặn thằng ấy thằng nọ đến nhà thì đừng có tiếp.
- Họ là ai?
- Bạn đồng ngũ của nó.
- Anh ấy có giải thích lý do không?
- Nó bảo bọn ấy đã phản bội bạn bè. Nó trọng chữ tín lắm. Cũng có thể là bọn nó đã bán đứng con tôi.
Nghĩa im lặng, anh khẽ nhíu mày. Anh đã hiểu ra lý do. Nhưng làm sao giải thích cho bà mẹ hiểu rằng chỉ có con bà mới tự cứu nổi mình? Anh nhìn người phụ nữ và bà mẹ, ái ngại:
- Bà chị nên thử khuyên anh ấy xem. Chứ tín là cần. Nhưng vấn đề bây giờ là đặt nó ở đâu. Nếu không sẽ thành cuồng tín.
Người phụ nữ tỏ vẻ đăm chiêu còn bà mẹ thì không nói gì. Đột nhiên bà úp mặt vào hai bàn tay, nấc lên:
- Trời ơi, tôi biết tin vào ai bây giờ hả trời. Tin vào công lý nhưng công lý không soi tới. Tin vào con người nhưng con người sẵn sàng ăn thịt lẫn nhau. Các ông ấy ác lắm. Các ông bảo không bắt người tắm trong máu nhưng thế này thì còn hơn nã một viên đạn vào tim.
Người phụ nữ bối rối nhìn mẹ, giọng van lơn:
– Thôi mẹ, con van mẹ, có ích gì đâu…
Nghĩa buồn bực đứng dậy bước bách bộ quanh bến xe. Làm sao lấy lại được ở bà mẹ thương con một cách mù quáng này tình yêu đối với cuộc sống?
Khi Nghĩa quay lại thì bà mẹ đã nín khóc. Bà nhì anh ngượng ngùng. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi:
- Tôi thật vô tâm. Xin lỗi cậu có vợ rồi chứ?
- Dạ, có rồi.
- Thế đã có “ tí nhau” nào chưa?
Đôi mắt Nghĩa thoáng tối lại. Anh khẽ lắc đầu:
- Dạ, chưa.
Bà mẹ không để ý:
- Các cô các cậu bây giờ sống hiện đại quá, nhưng cũng phải có con đi chứ. Phụ nữ sinh đẻ có thì.
Nghĩa trầm ngâm:
- Bọn cháu cũng mong có con lắm. Nhưng… nhà cháu không sinh được.
- Sao vậy?
Nghĩa cắn răng. Câu hỏi vô tình như một mũi dao sắc nhọn chích vào tim anh. Anh im lặng một phút rồi nói khẽ giọng run run:
- Hồi ở tù Côn Đảo bị tra tấn sao đó mà vợ cháu tuyệt đường sinh con.
Mặt bà mẹ biến sắc. Bà cúi xuống như nói cho mình nghe “ Xin lỗi. Tôi không biết”. Người phụ nữ khẽ rùng mình, quay đi lén lấy ống tay áo lau vội giọt nước mắt.
Chuyến xe buýt cuối cùng trờ tới, ép sát vào lề đường.
Bà mẹ đứng dậy hình như thấy nỗi đau của mình vơi đi.
Xuống xe buýt nhất định bà mẹ không chịu để Nghĩa giúp nữa. Hai mẹ con ghé vào lề đường chờ xích lô. Nghĩa xách va ly quay đi nhưng vẫn ngoái lại nấn ná chờ hai mẹ con lên xe. Đường đã hơi vắng.
Bỗng hai chiếc hon đa 67 thắng kít lại trước hai mẹ con người phụ nữ. Linh cảm thấy điều gì chẳng lành, Nghĩa ném chiếc va ly của mình ở đường, lao tới. Anh vừa kịp nắm chiếc va ly của người phụ nữ kéo lại bằng một sức mạnh phi thường, thì chợt thấy đau nhói ở bả vai. Hai chiếc hon đa phóng vút đi và tiếng còi cảnh sát ré lên.
Tất cả diễn ra chỉ trong nháy mắt.
Một anh chàng tóc chớm vai, mặc chiếc quần zin mốt mới nhất xách chiếc va ly của Nghĩa lách đám đông, tiến vào. Nghĩa đã đứng dậy. Một dòng máu đỏ ứa ra thấm trên vai áo sơ mi. Người phụ nữ rút trong túi xách lấy ra cho anh chiếc khăn trắng tinh. Bà mẹ bước lại gần Nghĩa, xúc động:
- Cám ơn cậu, cậu tốt quá. Nếu không có cậu chẳng biết mẹ con tôi sẽ ra sao.
Nghĩa mỉm cười, gương mặt trắng nhợt trong ánh điện. Sao lại không có anh được nhỉ? Mà nếu không có anh thì cũng sẽ có một người nào khác chứ sao. Bà mẹ ơi, lòng tốt đâu phải là một thứ hàng xa xỉ. Nhưng trách bà mẹ làm sao được. Trong muôn vàn những hình thù dị hình dị dạng của chế độ cũ để lại cái vòng tròn khó có thể tránh khỏi ảo giác bị méo mó.
Ngày hôm sau, lúc đi làm về, cô gái thấy trên một tờ báo có một tin ngắn nhắc đến hành động của Nguyễn Hữu Nghĩa, công nhân nhà máy Sincô. Cô đã ghé mua. Đón tờ báo từ tay con dâu, bà mẹ run lên. Có một cái gì đó bật dậy trong lòng như một chồi cây tơ, hệt tiếng đạp trong bào thai lần đầu tiên của đứa con. Bà phải hai lần tháo cặp kiếng lão ra lau mà mắt kiếng vẫn mờ. Bà đã khóc bao nhiêu lần trong cuộc đời? không nhớ, nhưng nhiều lắm. Vậy mà hôm nay nhắm vị mặn của nước mắt, bà cảm thấy như mới gặp nó lần đầu. Những giọt nước mắt như những tảng băng vỡ tung ra trước nắng xuân.
Cảm thấy vừa hất tung được hòn đá đè nặng trên ngực, bà quả quyết đứng lên. Bà quyết định viết thư cho con trai.
Người thanh niên nọ nói gì nhỉ? Họ đang vẽ những hình tròn. Phải rồi! Nhưng mình lại nhìn tất cả bằng con mắt méo mó. Ôi! Những trái tim đui mù…
Bà khe khẽ lắc đầu và mỉm cười. Người Phụ nữ quay đi. Chưa bao giờ chị bắt gặp ở bà một nụ cười như thế.
Lính trinh sát
Truyện ngắn
Hội tỉnh lại vào lúc nửa đêm.
Hình như chínhc cái giấc ngủ triền miên đã giúp anh ấy lấy lại sức. Mặc dù chỉ một chút cử động là cả cơ thể anh lại nhói đau như có ai thò tay bóp lấy quả tim. Anh cắn răng bò lết trên mặt đất còn khét lẹt mùi bom đạn.
Vượt qua trục đường quốc lộ số một, Hội tiến dần đến chân cao điểm, nơi tổ trinh sát của anh có nhiệm vụ tiềm nhập. Đã bao lần vào ra trước lưỡi hái của tử thần chưa lần nào anh có cảm giác cô đơn như lần này. Tụng đi trước mở đường đã không quay trở lại. Còn Huề, nhân viên điện đài bất thần nhận một trái pháo mồ côi. Trái pháo ấy cũng phá tan luôn cái điện đài, phương tiện liên lạc duy nhất với cấp trên và suýt giết chết luôn cả Hội, người chiến sĩ trinh sát lừng danh.
Đêm nóng oi ả.
Đã tháng tư mà vẫn không có lấy một giọt mưa. Trời vần vũ trăn trở như một người đàn bà đẻ khó đang quần quại vì cơn đau. Có lẽ cũng chính vì không mưa được nên dường như càng về đêm cái nóng càng tăng lên. Nóng như muốn bốc hơi nốt số nước còn lại trong người Hội khiến anh có cảm giác như mình đang nằm trên chiếc chảo gang. Ở đất này về mùa khô nước còn cấp thiết hơn cả gạo.
Vậy mà Hội đã gặp nước.
Từ trên trót vót cao điểm đồi 500 nước phun lên từng tia như những cái vòi phun ở công viên. Nước phun lên rất cao làm ướt đầm cả khu đồi. Cơn khát của Hội bất chợt bùng lên dữ dội. Nước. Câu chào mời mới hấp dẫn làm sao. Nó như một cơn gió chướng thổi bùng lên ngọn lửa sức mạnh đang leo lét trong cơ thể Hội. Trong chớp mắt anh đến chân cao điểm. Chỉ ít phút nữa thôi là anh có thể với tay tới cái hạnh phúc đó. Hội nhắm mắt lại và khoái trá tưởng tượng ra cái cảm giác mà anh đã từng được hưởng vào những trưa hè nóng như đổ lửa, khi anh ghé tấm lưng trần cháy đen vào vòi nước trắng phau của chiếc máy bơm, nghe từng giọt nước ve vuốt trên cơ thể mình.
Một tiếng súng ngắn bắn vu vơ trong đêm làm Hội chợt tỉnh. Hình như tiếng súng ấy đã xua tan đi cơn khát thường trực trong anh. Anh cúi đầu tỳ trán xuống đất. Đức tính cảnh giác trong con người vừa như bị tê liệt đi bởi những thèm muốn bản năng bỗng trở lại đầy đủ. Làm sao lại có thể có nước phun xả ga ở một điểm cao như thế này? Một chi tiết không thể không lưu ý đối với một người lính trinh sát, nơi mà mọi sự sơ suất hay nhầm lẫn trong phán đoán đều phải trả giá bằng giá đắt, không chỉ bằng sinh mạng của một con người mà của nhiều người. Anh chợt nhớ đến nguyên nhân Tụng không quay trở lại. Không có tiếng súng, vậy là không phải Tụng chạm địch hay đụng mìn. Cũng không có khả năng lạc đường vì Tụng vốn được mệnh danh là chiếc địa bàn sống. Địa hình phức tạp đến đâu cũng không làm anh mất phương hướng. Vậy thì vì sao? Thôi rồi. Có lẽ nguyên nhân là ở chỗ này đây. Tụng đã dính vào nước chết.
- Thì ra mày xảo quyệt như vậy đấy. Bây giờ thì tao đã biết âm mưu của mày rồi – Hội vừa nói lầm thầm trong miệng vừa xốc lại khẩu AK và khối thuốc nổ nặng trĩu trên lưng, hối hả bò trở lui.
Nước chết. Không còn nghi ngờ gì nữa. Trường hợp này anh đã từng gặp ở Khe Sanh. Chỉ khác là ở Khe Sanh chúng gí điện xuống cả một con sông lớn. Còn ở đây chúng phun nước tràn lan trên mặt đồi. Vậy là anh chỉ còn một con đường: nhanh chóng rút lui khỏi tấm lưới dẫn điện cực nhạy dưới chân để tránh một cái chết cầm chắc trong tay nếu nước tràn xuống.
Có lẽ đã một giờ đêm. Không phải do cái phát hiện lớn lao kia hay do không khí nửa đêm về sáng có phần dịu lại mà Hội thấy hồi phục hẳn. Điều ấy giúp cho anh rút sang quả đồi đối diện một cách dễ dàng hơn, đúng vào lúc từ trên bồn chứa nước chảy ào ra như thác, và chỉ một thoáng sau đã lan ra đến vị trí mà anh vừa nằm. Trong ánh pháo sáng, anh nhìn rõ một con mển đi ăn đêm bị điện giật bắn tung lên đang giẫy đành đạch trên vũng nước. Hội thở phào. Nhưng cái cảm giác về sự nguy hiểm vừa qua thì cái lo lập tức ập đến. Vậy tổ trinh sát Hồng Lĩnh chỉ còn một mình anh. Anh không còn điện đài liên lạc với trung đoàn. Làm sao anh hoàn thành nhiệm vụ mà đích thân đồng chí trung đoàn trưởng đã trực tiếp và tin cẩn giao cho anh?
Hội trải tấm ni lông, vừa làm chỗ nằm vừa làm chất cách điện trong một bụi cây khô, nằm xuống. Bầu trời đã hết vần vũ, thăm thẳm đầy sao. Dải ngân hà vắt ngang bầu trời đục như một dòng sông bạc in vào mắt Hội. Gió thổi ù ù lay động những khóm cây ngả nghiêng còn sót lại sau những trận B52 trải thảm, như có cơ man con thú đang làm náo loạn cả khu rừng. Hội đưa mắt tìm ông thần nông và chòm sao Bắc Đẩu. Một câu hát từ thời thơ bé vụt lướt qua trong tâm trí anh. Anh mỉm cười lẩm nhẫm: “ Một ông sao sáng”… Nhưng chưa kịp đến hết câu, anh đã thiếp đi trong mệt mỏi.
Hội nằm trong bụi cây, đối diện với cao điểm 500 suốt ngày hôm sau. Phải kiên trì chờ đến đêm. Với người lính trinh sát, kiên trì giống như một bản ngã thứ hai. Vậy mà anh vẫn có cảm giác thời gian tiến chậm như rùa bò. Mỗi khoảnh khắc trôi qua dài đến phát ghê lên được. đã vậy cơn giông vần vũ chưa kịp vắt ra một giọt nước đã tan biến. Mặt trời lại hiện ra chói chang như vừa nối thêm cả một ngày mới dài dặc tiếp theo.
Nhưng cuối cùng đêm cũng phải đến. Trước khi đi tìm xác Tụng, nhiệm vụ của Hội là triệt tiêu sức đề kháng của trọng điểm này. Muốn vậy anh phải tìm cho ra cái bẫy mà kẻ thù đang giăng ra kia. Có điều gánh nặng nhiệm vụ ấy giờ đây dồn toàn bộ lên vai anh, đòi hỏi anh không chỉ dũng cảm mà còn phải khôn ngoan hơn gấp bội.
Mọi việc vẫn diễn ra giống như đêm hôm trước. Vòi phun ở bồn phía cao điểm đồng loạt phun nước lên. Trong ánh điện khi mờ khi tỏ, Hội nghe thấy tiếng của chiếc máy phát điện cỡ lớn lúc rú lên, lúc lịm đi. Tất cả đều rõ ràng như nhận định của Hội đêm qua. Địch gí điện vào nước để ngăn ta tiếp cận cao điểm.
Nhưng niềm vui về một nhận định đúng chưa kịp nhen lên, thì một câu hỏi lập tức được đặt ra: làm sao có thể phá tan được cái bẫy ấy của kẻ thù mở đường cho quân ta tấn công vào cao điểm đúng vào ngày đã quy định. Không lẽ anh cứ nằm chết trong tấm ni lông cách điện này ư? Phải dập tắt cái máy phát điện kia, nhưng làm cách nào để dập tắt nó thì anh chưa biết. Khả năng liên lạc với trung đoàn bị loại trừ vì cả điện đài lẫn người truyền tin đều không còn. Vả lại trung đoàn làm gì có pháo. Nếu có sự thể sẽ đơn giản biết bao.
Vậy thì chỉ còn một cách duy nhất là anh phải tiếp cận mục tiêu. Nhưng tìm đâu ra một khoảng trống trong khi cả một ngọn đồi lớn mênh mông nước chúng phun ra còn hơn cả mưa rào. Hội cảm thấy bực bội và bứt rứt không yên. Đúng, phải tìm ra một khoảng trống cho phép. Tất cả vấn đề là ở chỗ ấy. Phải tìm cho ra khoảng trống. Nhưng khoảng trống ấy nằm ở đâu? Nó ở đâu?
Trong ánh sáng đang lụi dần. Hội vẫn nghếch đầu lên quan sát. Anh thấy ngọn đèn bảo vệ mờ dần và tiếng cháy và tiếng máy phát điện lịm đi. Chúng nó gí điện. Hội bất giác giơ tay xem đồng hồ. Kim dạ quang chỉ 7 giờ. 7 giờ. Một tia chớp như chợt loé lên trong đầu anh. Đúng rồi, có thể anh đã tìm ra khoảng trống ở đây. Không lẽ chúng gí điện thâu đêm suốt sáng.
Hội nằm im. Cảnh vật lúc ấy lặng phác. Nếu không có tiếng súng nổ vu vơ thì có thể lầm tưởng là một đêm yên tĩnh trong thời bình, không hề có chiến tranh, hệt như cái đêm Hội trải ni lông trên đồi trẩu chờ cô gái làng trước ngày anh nhập ngũ.
Tiếng máy nổ rú lên làm Hội bật dậy. Đúng lúc ấy những ngọn đèn bảo vệ cũng rực lên. Hội canh đồng hồ. Đúng chín giờ. Vậy là suốt hai giờ đồng hồ liên tục gí điện chúng đã dừng lại nghỉ. Hội lấy sổ tay ra ghi. Khoảng trống nằm ở đây chăng?
Hội thắc thỏm chờ đời giây phút tiếng máy lặng im đi. Việc đó xảy ra vào lúc 11 giờ. Nghĩa là đúng hai tiếng đồng hồ sau. Hội muốn hét lên cho vỡ tung lồng ngực vì mừng rỡ nhưng anh đành nín lặng. Đột nhiên anh thấy nước mắt mình ứa ra. Tụng và Huề ơi, các cậu có nghe thấy không, mình đã tìm ra con đường lên cao điểm 500 rồi. Cái khoảng trống mà sẽ hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho, sẽ trả thù cho các cậu. Sẽ trả thù…
10 giờ đêm chiếc máy điện ở cao điểm 500 nổ tung. Toán lính bảo vệ đang làm nhiệm vụ gí điện đã bị diệt gọn. Cả cao điểm chìm trong đêm đen. Nhưng từ các công sự trên cao điểm đạn bắn ra như vãi trấu. Một trái M75 làm Hội bị trọng thương.
Khi bọn lính ở trong các công sự của cao điểm tràn ra thì trời đã sáng rõ. Viên chỉ huy dừng lại vài giây lặng im nhìn cái xác bẹp dúm của chiếc máy phát điện và những cái thân đẫm máu của bọn lính. Hắn nhảy lên đống bao cát trên công sự quan sát và ra lệnh cho toán quân tản ra tìm kiếm xung quanh. Hoàn toàn không có dấu vết gì của trận đánh quy mô. Vả lại nếu đêm qua xảy ra trận đánh quy mô thì hôm nay hắn chưa chắc đã còn sống để có thể đứng đây chỉ huy lùng sục. Nghĩa là chỉ có một toán địch rất nhỏ lọt lên cao điểm. Hắn không thể hiểu nổi vì sao Việt Cộng lại có thể vượt qua một cái bẫy hiểm hóc như thế này, cái bẫy mà lâu nay vẫn làm cho cao điểm trở thành pháo đài bất khả xâm phạm.
Lúc ấy Hội đang nằm bất động trong một căn hầm.
Hơi ấm của đất và sương lạnh đã lay Hội tỉnh dậy. Anh hé mắt và nhỏm người lên. Anh thoáng thấy bõng những bộ rằn ri lấp ló trên bờ công sự. Nhưng Hội không gượng ngồi dậy được. Cơ thể bầm giập thương tích lúc này đã trở nên quá nặng nề đối với anh. Cảm giác về sự nguy hiểm chạy lướt trên làn da khiến Hội nghĩ đến cái khả năng xấu nhất sẽ xảy ra. Việc đầu tiên anh phải làm là thủ tiêu những ghi chép có thể có hại nếu rơi vào tay địch và cuốn nhật ký nhỏ anh vẫn mang trong ngực áo. Riêng tờ giấy có chữ ký của Bác Hồ mà anh luôn giữ theo người thì anh băn khoăn chưa biết giải quyết ra sao. Đấy là chữ ký mà anh đã xin vơi Bác lần anh được gập Người cùng với đoàn học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Cuối cùng, Hội quyết định giấu tờ giấy vào tấm vải trong cổ áo. Sau đó anh quờ tay tìm khẩu AK. Khó nhọc lắm anh mới kéo được khẩu súng về phía mình. Và, bất chấp cả những đau đớn giày vò, anh cắn răng giương khẩu súng lên vừa lúc một bộ đồ rằn ri hiện ra ngay trên tầm súng.
Tiếng AK ré lên đốn tên lính nguỵ té cái rầm xuống mặt đất. Toán địch xung quang cũng nhào xuống theo một phản ứng tự nhiên. Hồi lâu không có động tĩnh gì chúng mới lóp ngóp bò dậy thận trọng tiến về phía súng nổ.
Bọn địch tìm thấy Hội dưới ngách một căn hầm đã đổ sụp gần hết. Anh đang nằm thở hổn hển, mặt tái xanh vì đau. Chúng nhặt bên cạnh anh khẩu súng AK đã hết đạn, báng súng vỡ tan và lôi anh lên khỏi hầm. Trên thân thể đầy thương tích của người lính giải phóng hiện ra một bộ mặt còn rất trẻ, có lẽ chỉ độ 20, 22 tuổi là cùng.
Lục soát khắp người anh, bọn lính lính không tìm thấy điều gì có ý nghĩa ngoài cuốn nhật kỹ đã bị xé qúa nửa.
Lật từ vết rách của chiếc cổ áo chúng còn tìm thấy một tờ giấy nhỏ gấp tư. Viên sĩ quan cầm tờ giấy từ tay bọn lính và ngạc nhiên nhìn chữ ký Hồ Chí Minh bằng mực đỏ được đóng khung rất trang trọng. Nhưng, trong khi hắn nhíu mày săm soi tờ giấy, người lính giải phóng đang run lẩy bẩy bỗng đứng thẳng dậy, đôi mắt lờ đờ như thất thần đột nhiên sáng rực lên. Một sức mạnh bất ngờ cuốn anh lao vụt về phía viên sĩ quan, giật lấy mẫu giấy nhai ngấu nghiến và nuốt chửng.
Viên sĩ quan nguỵ sửng sốt đứng bất động trong một giây. Chỉ đến khi thấy mũi khẩu M16 của thằng lính đứng cạnh rung lên và tiếng súng giật cục như tiếng nấc thì hắn mới chợt tỉnh. Hắn nhìn người lính giải phóng đổ nghiêng trên bao cát và nhún vai văng một câu tiếng Pháp, như nói để một mình nghe:
- Héles! L’âme du vainqueur (Trời ơi, tinh thần của kẻ chiến thắng)
Tiểu đoàn ba được lệch tấn công cao điểm vào đúng ngày quy định sau khi tốp trinh sát thứ hai được phái đi đã trở về. Trận đánh diễn ra rất nhanh chóng. Sau khi thu dọn chiến trường tiểu đoàn trưởng. Nguyên ra lệnh cho chiến sĩ quan phải tìm cho được dấu vết tổ trinh sát Hồng Linh, những người đã phá cái bẫy của kẻ thù ở đồi 500 góp phần vào chiến thắng của tiểu đoàn. Nhưng họ chỉ tìm được xác của Huề và Tụng. không ai tìm thấy dấu vết gì của Hội. Tiểu đoàn trưởng Nguyên băn khoăn nhưng rốt cuộc anh đành ra lệnh rút lui. Thời gian không cho phép họ chần chừ. Đúng lúc ấy một chiến sĩ chạy về phía Nguyên:
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng.
- Gì vậy?
- Báo cáo, ở đằng kia…
Tiểu đoàn trưởng Nguyên giật mình:
- Cái gì? Ở đâu?
Anh chiến sĩ thở dốc, chỉ tay về phía sườn đồi.
- Báo cáo, không phải địch. Ở đằng ấy tôi tìm thấy cái này.
Nguyên chộp lấy cuốn sổ từ tay người chiến sĩ. Cuốn sổ loang lổ vết máu. Đúng là cuốn nhật ký của Hội đây rồi. Cuốn nhật ký có chữ ký của Bác mà anh vẫn thường khoe. Anh hất hàm hỏi người chiến sĩ:
- Đưa tôi đi.
Hai người dừng lại cạnh hố pháo. Nguyên chậm rãi đi vòng quanh. Phía bên kia cái máy phát điện nằm bẹp gí như một đống sắt vụn. Không có dấu vết gì hết. Vậy là Hội hy sinh sau khi dập tắt chiếc máy phát điện này. Nguyên đã hình dung ra sự việc như vậy.
Trong khi đó, anh chiến sĩ cùng đi với Nguyên đang chăm chú đào bới cái gì đó ở phía xa hơn. Lát sau, anh mang lại một miếng gỗ:
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng.
Nguyên quay lại. Anh cứ ngỡ là mình hoa mắt nhìn lầm. Trên mảnh gỗ nhỏ là một dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng sơn trắng, dính đầy bụi đất: Một người lính trinh sát Việt Cộng dùng cảm.
- Cậu tìm thấy ở đâu vậy.
- Báo cáo, tôi tìm thấy ở trong hố pháo trước mặt.
- Nguyên nhìn theo tay chỉ của người chiến sĩ. Vậy là Hội nằm ở đấy. Một người lính Sài Gòn nào đó đã chôn anh ấy. Nguyên ngã mũ và cảm thấy dòng chữ sơn trắng kia cứ nhảy múa trước mắt. Anh nghĩ tới câu nói của một danh nhân mà anh đã đọc trong cuốn sách nào đó: Những người dũng cảm không bao giờ chết.
27 – 7- 1985
Ngày cuối cùng của chiến tranh
Truyện ngắn
Luỹ giơ tay bấm chuông. Trước cửa ngôi nhà có giàn hoa giấy thật đẹp.
Gió thổi bay ống tay trên cánh tay áo bị cụt đến khuỷu. Luỹ mỉm cười mơ hồ. Sao mỗi lần cứ đứng trước giàn bông giấy này, anh lại bất chợt nhớ đến cái buổi hai người làm quen nhau.
Câu chuyện xảy ra ở một nhà ga xe lửa, và bắt đầu có vẻ hơi kỳ cục. Hôm ấy, anh cũng mặc một cái áo bộ đội cũ có ống tay áo phơ phất như thế này. Trong dòng người chen lấn ở ga, mồ hôi mồ kê nhẽ nhại, anh như suýt phát khùng khi có người từ hàng dưới lấn ào lên làm anh chơi vơi suýt té. Nỗi bực bội vì không lấy được vé chợt có dịp bùng lên. Anh quay lại. Nhưng cơn giận vừa đến lập tức nguôi đi như bị ai dội một gáo nước lạnh. Trước mặt anh là một cô gái, khoảng 24, 25 là cùng, đẹp và mảnh mai như một nhành dương liễu. Khuôn mặt lấm tấm mồ hôi đầy vẻ dịu dàng và duyên dáng. Anh đứng lặng như người bị thôi miên. Cô gái cũng đứng như vậy rất lâu, không nói gì. Chỉ đến khi, như đã săm soi kỹ đến từng lỗ chân lông trên khuôn mặt rám nắng của anh, cô mới thở dài, vẻ thất vọng hiện rõ trên nét mặt:
- Xin lỗi, tôi…
Luỹ như người đang mơ chợt tỉnh:
- Cô tìm ai phải không?
Cô gái nhẹ lắc đầu:
- Thưa, không…
* *
Có một mùi thơm bay ra và tiếng lạch xạch mở cửa làm Luỹ giật mình. Ca Dao hiện ra trước giàn bông giấy. Trong bộ đồ màu đen, trông cô thật nền nã và lịch thiệp. Cô mỉm cười:
- Anh vào đi.
Ca Dao mở rộng cửa sổ. Dường như tất cả vẻ đẹp lộng lẫy của buổi chiều đầu mùa khô đều tập trung vào đây. Một mảnh trời lồng lộng, xanh thăm thẳm, điểm những đám mây bông trắng xốp. Những cơn mưa cuối cùng đã chấm dứt. Nắng, như được rửa ráy bằng một thứ nước thần kỳ diệu nào, ngời lên trong vắt như thuỷ tinh.
Luỹ nhìn Ca Dao khéo léo cắm những bông hồng nhung trong chiếc bình bông. Đúng là gái một con trông mòn con mắt. Thực ra, nhìn cô, không ai nghĩ rằng cô đã có con. Cũng như không ai nghĩ rằng cô là một giáo viên dạy văn, có cái giọng sâu lắng và những bài giảng luôn cuốn luôn cuốn hút học trò. Cô còn quá trẻ so với cái tuổi có thể đạt đến độ chín chắn ấy, 15 tuổi cô đã lấy chồng. Cô chấp nhận số phận bởi cái nếp nhà nho phong truyền thống: Cha đặt đâu con ngồi đấy, và, cho môn đăng hộ đối như lời cha cô. Năm 18 tuổi, người con gái chưa hề biết tuổi thanh niên ấy đã nhảy một bước nhảy chóng mặt: làm mẹ.
Nhưng trong những ngày cô chuẩn bị làm mẹ, một biến cố trọng đại đã xảy ra…
- Anh kê giùm em chiếc bàn, Luỹ.
Tiếng Ca Dao làm anh giật mình. Anh đưa chiếc bàn vào một góc phòng, lòng đầy thắc mắc, băn khoăn. Ca Dao mời anh đến dự một buổi kỹ niệm, theo cô nói là đặc biệt. Nhưng anh cũng chỉ biết vậy. Lời mời không hề kèm theo một lời giải thích. Từ lâu cái quan hệ giữa anh và cô đã đi xa hơn cái quan hệ bạn bè thông thường. Nhưng cả hai người không ai dám nghĩ tới một điều gì khác. Anh đã hiểu gì về Dao? Về cuộc sống và tấm lòng cô. Cả cái lý do xui khiến hai người gặp nhau trong cái buổi sáng bình thường ở xe ga lửa cách đây một năm. Anh quay về phía Dao, bần thần:
- Tôi vẫn chưa hiểu lý do của buổi hôm nay.
Đáp lại vẻ mặt băn khoăn của Luỹ, cô gái cười nhẹ:
- Vậy thì đồng chí bí thư chi đoàn quan liêu rồi.
- Quan liêu? Nghĩa là sao?
- Nghĩa là quan liêu, vậy thôi. Nghĩa là… – Dao chợt đăm đăm nhìn vào mắt luỹ – có thật anh không biết hôm nay là ngày sinh của bé Giải Phóng không?
Luỹ nhíu mày ngạc nhiên:
- Sao lại ngày sinh? Vậy còn ngày 3 – 5? Ngày ghi trong giấy khai sinh…
Dao im lặng. Đúng là Luỹ không biết thật. Mà làm sao anh biết được. Đã bao giờ cô nói điều đó với anh đâu. Nhưng hôm nay… Dao phóng tầm mắt qua cửa sổ như nhìn vào đâu đó, xa lắm. Trong cái khoảng trời xanh ngắt nơi cửa sổ, hình như cô nghe dội lên có tiếng xe tăng. Đôi mắt cô chợt chở nên mơ màng:
- 3- 5. Vâng. Đó là ngày cháu Giải Phóng chào đời. Nhưng ngày sinh của cháu lại đúng là ngày hôm nay. Bởi vì nếu không có ngày hôm nay…
Dao ngừng bặt, không nói tiếp nữa. Luỹ nghe một giọng hát rất trong từ phía dưới dọi lên. Bé Giải Phóng vừa nhảy chân sáo lên bậc thang lầu, miệng líu lo như một chú chim sơn ca. Thằng bé giống mẹ thật. Từ đôi má lún đồng tiền, sống mũi thẳng, cho đến cái trán dô bướng bỉnh. Điều khác nhau duy nhất giữa bé Giải Phóng và mẹ, có lẽ là cái miệng. Cái miệng hơi rộng, tuy nhiên vẫn mang được vẻ duyên dáng của mẹ, mà lúc giỡn chơi với nó anh thường đùa là cái miệng “làm quan”. Bé Giải Phóng sà vào lòng anh:
- Chú Luỹ, chú tới hồi nào mà con không hay?
Luỹ vuốt tóc bé Giải Phóng:
- Chú mới tới
Đứa bé ngước đôi mắt đen lóng lánh như hai hạt nhãn, nũng nịu:
Con mong chú hoài à.
Luỹ cười cười:
- Chi vậy.
- Để nghe chú kể chyện.
Ca Dao rầy con nhưng vẻ giọng đầy vẻ trìu mến:
- Kìa con để chú Luỹ nghỉ chớ.
Thằng bé nhìn mẹ, vẻ trách móc:
- Sao má la con hoài, ngày nào má cũng gặp chú Luỹ , còn con…
Luỹ đỏ mặt cười xoà:
- Thôi thôi để chú thường. Má cậy lớn ăn hiếp con phải không. Tội nghiệp. Nào, bây giờ muốn nghe chuyện gì đây.
Mắt bé Giải Phóng sáng lên:
- Thì chuyện gì cũng được, tỷ như chuyện chú đánh vào dinh Độc Lập đó.
Luỹ ầm ừ:
- Nhưng có gì đâu mà kể. Chú theo xe vào dinh Độc Lập, rồi tổng thống Sài gòn đầu hàng. À, thôi, chú kể chuyện này nghe – mặt Luỹ thoáng vẻ hóm hỉnh – chú kể chuyện con kiến và hạt cơm, chịu không?
Bé Giải Phóng gật đầu.
- Chuyện vậy nè – Luỹ bắt đầu- có một con kiến đói phát hiện ra một hạt cơm trên mép một anh chàng nọ. Nó rất thèm ăn. Nhưng con kiến cứ băn khoăn tính toán mãi. Nó bên mép này còn hạt cơm bên mép kia. Nó không biết nên đi đường nào cho ngắn. Loay hoay một hồi, con kiến quyết định. Nhưng nó không đi thẳng con đường trước mặt mà lại đi vòng qua sau gáy. Một con ruồi bay qua thấy vậy hỏi: “ Cậu ngốc thế, sao không chon con đường phía trước”. Kiến ta trả lời: “ Đi đường này nhanh hơn”. ‘Tại sao nhanh hơn”. Ruồi không hiểu. Kiến cười “ có gì đâu, là khoảng cách từ mép bên này đến mép bên kia anh chàng dài hơn khoảng cách đó nếu đi từ phía sau gáy.
Ca Dao bật cười, Luỹ cũng cười. Bé Giải Phóng ngớ ra nhìn hai người. Nhưng rồi nó cũng hiểu. Nó vùng vằng chạy sang phía mẹ, phụng phịu:
- Mẹ chú Luỹ phá con.
Dao ngừng cười, cô vỗ về đứa bé:
- Ừ, thôi để má phạt chú Luỹ phải kể cho con nghe câu chuyện khác. Riêng má, hôm nay má hứa má sẽ kể cho con nghe một chuyện, chịu chưa?
Bé Giải Phóng gật đầu.
Không phải bây giờ Luỹ mới đến nhà Dao. Nhưng đây là lần đầu tiên Dao mời anh lên căn phòng này. Có phải đây là bước chuyển mới trong quan hệ? Anh không biết. Dao quý anh. Một phần vì những đức tính trong con người anh. Nhưng Luỹ vẫn mơ hồ cảm thấy có một cái gì đó vượt khỏi con người anh. Hình như, Dao muốn qua Luỹ để tìm đến một con người nào đó, một kỷ niệm nào đó mà cô vẫn giữ kín trong lòng. Luỹ là người vui vẻ, cởi mở nhưng lại tỏ ra rất vụng về trong khả năng khai thác tâm lý nhất là tâm lý phụ nữ. Cái sức hút tuyệt vời đối với người già và trẻ con anh hoàn toàn mất hết tác dụng khi đứng trước phái đẹp…
- Anh Luỹ anh phụ em một chút coi.
Luỹ bước vội lại. Anh leo lên chiếc ghế, theo lời Dao hạ một bức tranh sơn mài xuống và đặt ở một góc phòng. Anh ngạc nhiên nhận thấy mảng tường phía sau bức tranh có một vết thủng nhỏ. Giữa làn nước vôi màu hồ thuỷ có lẽ mới được quét lại không lâu, lỗ thủng hằn lên như một vết sẹo. Nó có vẻ lạc điệu với vẻ trang nhã của căn phòng. Bằng con mắt của người lính, Luỹ nhận ra đó là dấu vết của một viên đạn. Anh linh cảm thấy có mối liên quan gì đó giữa dấu vết này và lý do của cuộc gặp mặt hôm nay.
- Hình như là dấu một viên đạn – Luỹ quay sang phía Dao.
Dao gật đầu xác nhận:
- Vâng, đó là dấu một viên đạn, nói đúng ra đấy là một kỷ niệm. Có thể nó lạc lõng với căn nhà này, nhưng nó không lạc lõng với em. Người ta không ai sống bằng kỷ niệm cho dù đấy là một kỷ niệm đầy hào quang. Nhưng người ta cũng không thể sống thiếu kỷ niệm. Chiến tranh đi qua đã mười năm, vì sự hoàn mỹ của căn phòng, em có quyền xoá đi dấu vết đó. Nhưng, em không thể. Em không dễ quên.
Bởi vì đáng lý viên đạn sẽ nhằm vào em, theo cái lô gích bình thường và nghiệt ngã của chiến tranh. Nhưng, người lính ấy đã không tuôn theo cái lô gích bình thường…
* *
…Cô gái mang cái bụng bầu quá lớn so với vóc dáng nhỏ bé của cô. Những ngày cuối tháng tư này, cả thành phố dung lên như cơn sốt. Các phòng tuyến lần lượt thất thủ. Trận chiến đang hàng ngày hàng giờ tiến sát tới Sài Gòn. Nỗi kinh hoàng ngày càng tăng lên trên khuôn mặt của người con gái sắp làm mẹ, còn phảng phất cái dáng vẻ trẻ con. Làm sao có thể khác được, bởi cô đã từng đọc quá nhiều sách báo tuyên truyền về những người được gọi là Việt Cộng, về cách cư xử dã man của họ. Cô lo sợ một cuộc tắm máu sẽ xảy ra. Chồng cô một đại uý thuộc sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đang tử thủ ở Xuân Lộc. Người giúp việc trong nhà cô hoảng sợ bỏ trốn về quê để lại mình cô với cái bầu 7 tháng, trong căn nhà rộng mênh mông, giữa thành phố Sài Gòn đang chuẩn bị sụp đổ không cơ cứu vãn.
Sáng 30 tháng 4, những loạt pháo nổ rung cửa kính đã đánh thức cô dậy. Chiến trận tràn đến dinh luỹ cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Một sự hoảng loạn bao trùm cả thành phố. Cô cay đắng nghe qua ra-đi-ô lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh. Thế là hết. Trước nhà cô, những đoàn xe tăng cắm cờ đỏ sao vàng rầm rầm chạy ngang cửa sổ. lần đầu tiên cô được nhìn thấy những người Việt Cộng bằng xương bằng thịt mang trên đầu những chiếc nón tai mèo. Dao phải vịn tay vào thành cửa sổ mới đứng vững được. Phía dưới đường súng, băng đạn, nón sắt, áo rằn ri, những đôi giày lính và những thắt lưng của những kẻ trốn chạy vất ngổn ngang.
Dao nặng nề gieo mình xuống sa lông. Qua cánh cửa mở hé, cô nhìn những đoàn xe tăng nối tiếp nhau đi qua. Cửa kính căn nhà rung lên nhè nhẹ. Lẫn trong tiếng xe tăng, cô nghe tiếng tim mình đập thùm thụp như chưa bao giờ nó đập dữ dội đến thế. Vậy mà máu vẫn không đủ sức vận hành, khiến cô luôn luôn ở trong trạng thái ngộp thở và muốn xỉu. Giữa những tiếng động bất thường đó, Dao còn cảm nhận thấy một tiếng động khác tưởng như vô hình: tiếng động của một chân bé tí xíu đang đập mạnh dưới bụng, sau làn da.
Tất cả chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, nhưng đã để lại dấu ấn hàng thế kỷ. Dấu ấn cho suốt đời cô. Và cho con cháu cô những người sẽ sinh ra và lớn lên trong căn nhà này.
Khi chiếc xe tăng cuối cùng của đoàn xe tăng khuất sau tầm mắt, Dao thấy những người lính giải phóng hiện ra. Hoang mang lo âu không át nổi tính tò mò cố hữu. Những người lính mũ tai bèo trên đầu, ba lô khoác vai, súng cầm, đi theo hàng một, thận trọng tiến trên đường phố.
Nhiều loạt súng đột ngột nổ ran, hình như là được bắn ra từ một buyn – đinh nào đó. Hàng lính đội mũ tai bèo vội tản ra. Từ các gốc cây và góc tường, họ chĩa súng lên ngôi nhà cao tầng. Và ngay sau đó xung phong vào nơi vừa phát ra tiếng súng. Tiếng nổ lại dậy lên.
Dao hoảng sợ đóng sập cánh cửa. Sau đó cô không phải đi mà đổ xuống nệm ghế bọc da. Nỗi lo sợ ngày càng làm đau nhói vùng ngực. Bên ngoài người ta đuổi nhau trên bao lơn, trên nóc nhà. Họ nhảy qua các lan can. Tiếng hò hét lẫn trong tiếng súng.
Dao không đủ sức đứng dậy và cũng không dám đứng dậy nữa. Cô ngồi bất động trên sa lông. Có tiếng kính vỡ loảng xoảng ngay dưới lầu một nhà cô, sau đó tiếng bước chân rầm rập chạy lên thang lầu.
Một sĩ quan dù Sài Gòn , khẩu súng lục lăm lăm trên tay, đột ngột xuất hiện.
Gã đội một chiếc nón sắt và mặc một bộ đồ rằn ri. Dưới cái lốt của một sắc lính con cưng của chế độ Sài Gòn hiện ra một cái đầu bù xù, lởm chởm dâu, vẻ mặt hốt hoảng đến thảm hại. Những thớ thịt trên má y giật liên hồi vì căm thù và khiếp sợ. Đôi mắt thất thần liếc nhanh qua căn phòng một giây. Phía dưới thang lầu vang tiếng chân gấp gáp của những người lính giải phóng.
Viên sĩ quan dù, trong cơn tuyệt vọng như chết đuối vớ được cọc khi nhìn thấy người chủ nhà. Y lao vội về phía thành ghế của Dao. Kê nòng súng vào sát gáy Dao, y ra lệnh:
- Ngồi im. Động đậy là mất mạng.
Nhưng Y hăm doạ cũng bằng thừa. Bởi lúc bấy giơ Dao cũng chỉ là một cái xác. Đầu óc cô tê cứng như bị đóng băng, như không còn biết những gì xảy ra xung quanh.
Người lính giải phóng nhô mình lên khỏi thang lầu. Trên khuôn mặt trẻ măng còn lún phún mấy sợi lông tơ. Đôi mắt anh long lên. Anh hờn sẵn khẩu AK trong tay, sãn sàng kéo cò. Anh đã nhìn thấy bóng viên sĩ quan dù sau chiếc ghế xa lông. Gương mặt anh sát lại. Làm sao anh quên được cái ánh mắt và lời chăn trối cuối cùng của bạn anh trong những giây phút cuối cùng của chiến tranh, lúc nhận viên đạn ngoan cố của viên sĩ quan dù này.
Nhưng nòng súng của anh chợt hướng chếch lên góc tường. Phía trước viên sĩ quan dù là một người đàn bà có cái bụng to tướng. Và viên đạn đã không bay đến cái hướng nó cần đến mà lệch sang hướng bên kia của góc tường, phá ra một lỗ thủng nhỏ.
Trong cái giây đồng hồ ngập ngừng đó, người lính giải phóng đang từ thế chủ động bỗng hoá bị động. Gã sĩ quan dù chớp lấy tình thế ngàn vàng. Gã bình tĩnh nhằm anh bộ đội nổ hai phát súng. Một viên đạn trúng vào tay trái anh.
Anh lính trẻ lùi lại, nép vào thang lầu. Máu từ vết thương chảy ra ướt đầy tay áo, nhỏ giọt xuống cầu thang gạch bông. Bàn tay phải của anh lại chĩa thẳng khẩu súng lên. Nhưng anh không bắn.
Liền sau đó, tiếng bước chân rầm rập lại gần, nhiều chiếc mũ tai mèo nhô lên trê thang lầu
Đằng sau chiếc ghế sa lông, viên sĩ quan dù ngoan cố biết rằng mọi việc đã kết thúc. Trong cơn tuyệt vọng, Y quay nòng khẩu súng lục vào thái dương, bấm cò. Một tiếng nổ ngắn gọn vang lên. Viên sĩ quan đổ sóng soài ngay phía sau lưng người đàn bà có khuôn mặt xanh như tàu lá.
Một anh bộ đội đứng tuổi, có lẽ là chỉ huy nhưng ăn mặc không phân biệt gì với những ngừơi lính xung quanh, tiến lại. Anh cúi nhìn xác viên sĩ quan dù rồi nhặt khẩu súng lên xem. Khẩu súng đã hết đạn. Anh quay nhìn đồng đội giọng trầm tư:
- Súng hết đạn. Nếu không thì ít nhất chúng ta cũng còn có thể mất thêm một người. Một người ngoan cố đến điên cuồng. Nhưng không hèn nhát…
Anh bước lại phía người chủ nhà lúc ấy đang ngồi bất động trên ghế. Anh tháo bình toong, mở nắp và rót ra một nắp bình toong nước:
- Chị uống đi. Nước lạnh sẽ làm chị bình tĩnh lại. Chị còn quá trẻ để có thể thấy được nhiều điều. Mọi việc rồi sẽ qua đi. Người chiến sĩ của tôi tôi trọng cháu bé sắp chào đời. Chúc chị mẹ tròn con vuông. Cầu mong cho các em bé của chúng ta sẽ không bao giờ phải ngửi mùi thuốc súng.
Dao đưa tay đỡ lấy nắp nước, như một cái máy. Cô mấp máy môi nói “ cám ơn”, nhưng những người lính không ai nghe thấy. Cô nói với chính lòng mình.
Người ta đưa anh đi sau đó vài phút trên một chiếc băng ca. Cô không nhớ rõ khuôn mặt người lính, chỉ nhớ anh ta còn trẻ lắm. Máu vẫn ra đỏ cả cuộn băng trắng được băng lên trên cánh tay trái anh. Sau này cô cứ ân hận là không hỏi được tên tuổi và đơn vị anh. Nhưng lúc ấy làm sao cô có thể nhớ được. Nỗi kinh hoàng rồi sau đó là sự xúc động đã không cho co có cái khả năng có thể làm một điều gì khác. Và, cô chỉ nhận ra được sai sót ấy khi họ, những người lính giải phóng, đã mất hút trong dòng người hỗn loạn của Sài Gòn.
Một ngày sau, Dao nhận được tin chồng. Anh đã chết sau khi bỏ chạy về từ Xuân Lộc để giành lấy một suất vé máy bay chạy trốn ra ngoại quốc. Cái thai trong bụng Dao không chịu đựng nổi những chấn động tâm lý dữ dội đó. Hai ngày sau Dao sinh, sinh non. Đứa bé ra đời còi cọc vì thiếu tháng. Cô đặt tên nó là Giải Phóng.
Dao ngồi im, bé Giải Phóng cũng ngồi im. Gương mặt đưa bé mười tuổi chợt nghiêm trang như gương mặt một người già. Còn Luỹ anh không thể rời mắt khỏi vết đạn in hằn trên tường. Trong ngôi nhà này, cuộc chiến tranh đẫm máu đã đi qua, chỉ để lại một dấu vết rất nhỏ. Em bé có thể sẽ không hề nhớ gì về ngày kết thúc cuộc chiến tranh. Làm sao có thể trách em được, cũng như không thể trách một đứa bé không thể nhớ được ngày sinh của nó.
Không đứa trẻ nào trên thế giới có thể nhớ được ngày ra đời của mình, nếu người ta không biết cách làm cho nó nhớ. Quá khứ đâu phải là một tài sản riêng của một thế hệ, nhưng nó không thể đến với thế hệ sau bằng những lời thuyeét lý chung chung. Nhưng Luỹ tin, từ vết đạn sẽ mở ra cho bé Giải Phóng một ô cửa nhỏ. Nó đủ sức làm sống trong em những kỷ niệm chưa hề nhìn thấy. Và điều quan trọng là nó sẽ giúp cho em hiểu: Vì sao người lính giải phóng hôm ấy không tuân theo cái lô gích lạnh lùng của chiến tranh.
Nhưng, còn biết bao nhiêu em bé khác không có những vết đạn của riêng mình?
4 – 1985
Ngày mới
Truyện ngắn
Giám đốc nhà máy ngồi lặng im như pho tượng trước bàn làm việc của mình, điếu thuốc còn nguyên tàn cháy đến hai đầu ngón tay. Nửa giờ trước đây ông nhận được bức thư của trưởng phòng tổ chức cán bộ. Bức thư viết vội, nét chữ nguệch ngoạc, trên thứ giấy trắng đã hơi ố xé từ sổ tay ra. Ông giương cặp kính săm soi một vật thể lạ. ông đọc gần như thuộc lòng bức thư nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Bức thư chỉ vỏn vẹn có mấy dòng:
“ Kính gửi đồng chí giám đốc.
Tối qua, ngày 17/3, kỹ sư Nguyễn Tường Minh đi dự một buổi biểu diễn nhạc trẻ và không hiểu sao đã hành hung. Người ta đưa kỹ sư đi bệnh viện ngay vì nghi vết thương sọ não của anh tái phát. Bác sĩ khám kỹ cho kỹ sư và xác nhận không có triệu chứng nào của căn bệnh trên. Tuy nhiên, người ta đã phát hiện ra là anh uống rượu. Bác sĩ cho biết có thể anh đã uống gần hết ½ lít đế. Sáng nay tôi đến nhà kỹ sư để tìm hiểu nội tình. Có thể tôi sẽ điện về văn phòng, nếu cần.
Ký tên
Trưởng phòng tổ chức cán bộ”
Giám đốc loay hoay gỡ cặp kính ra. Có cái gì cay cay dâng lên sống mũi. Uống rượu, hành hung… Sao lại như thế được nhỉ? Một người chưa hề bị sai sót về tư cách, một cán bộ gương mẫu, hơn nữa một đảng viên… Ông tin người kỹ sư này như tin vào chính bản thân ông vậy. Minh là con trai duy nhất của người bạn chiến đấu đã ngã xuống đã giao lại cho ông. Không bao giờ ông quên được đôi mắt của người chính trị viên tiểu đoàn ngó mông lên vòm trời vả chỉ chịu nhắm mắt khi ông hứa sẽ tìm được đứa con trai của bạn và sẽ coi nó như con ruột của mình. Nhưng ông không thực hiện được lời hứa đó mặc dù ông đã tốn khá nhiều công phu tìm kiếm . Mấy trục năm sau, một sự may mắn tình cờ khiến ông tìm được Minh. Và cũng may mắn thay cho ông, con trai người đồng chí đã nên người.
Minh giải ngũ với vế thương ở đầu. Và vì có bằng kỹ sư, anh xin về công tác tại một nhà máy cơ khí. Chính ở đây, anh đã gặp được người bạn của cha mình – giám đốc kiêm bí thư Đảng uỷ nhà máy. Minh là một kỹ sư trẻ có tài năng. Anh luôn luôn hoành thành nhiệm vụ được giao với tinh thần tận tuỵ hiếm có. Giám đốc không chỉ hài lòng mà còn tự hào về anh. Ông thường lấy đó làm tấm gương giáo dục lớp trẻ nhà máy. Nhưng ông đã hiểu gì về Minh? Giám đốc xoa tay lên cằm bứt từng cọng dâu và bực bội đứng dậy. Vết thương đang còn mảnh
đạn trong người bất ngờ lại nhói lên. Ông buông từng bước nặng nề trong căn phòng. “ Xem nào, ta đã hiểu gì về Minh nhỉ?.. Chẳng hiểu gì cả, ngoài công việc”. Ông ít quan tâm đến đời tư của Minh. Người chính trị viên tiểu đoàn của ông khi ngã xuống, không kịp nhắc đến tên đứa con trai, nhưng vẫn còn kịp trối lại cho ông: “ Hãy chú ý đến con người – đó là tấy cả bí quyết của thanh công”.
Vậy là ông quên. Hay nói đúng hơn, ông không quên nhưng bắt đầu xa rời đồng đội. Trong chiến đấu dù sao cũng đơn giản hơn. Sau những trận chống càn, những cuộc hành quân xuyên đêm… đơn vị thật sự là cái tổ ấm duy nhất. Một lá thư từ hậu phương, một câu chuyện tâm tình cũng trở thành tài sản chung. Người lính luôn sẵn sàng bộc lộ với chỉ huy tất cả tâm tư của mình… Còn bây giờ, làm sao ông hiểu nổi hàng ngàn con người trong khi công việc sự vụ ngập đầu ngập cổ. Ông chỉ chú ý đến công việc. Bây giờ thì ông giật mình. Ông nhớ đến ý kiến của một đồng chí cấp trên: “ Kẻ thù đang giành giật với chúng ta từng con người cụ thể”. Ông chợt thấy tim mình nhói lên. Cũng có thể. Minh đã vượt khỏi vòng tay ông. Có thể lắm chứ…
Có tiếng chuông điện thoại reo. Giám đốc vồ lấy ống nghe. Khuôn mặt ông nhăn nhó trông đến khổ sở. Ông đưa ống nghe lên tai. Ổ đầu bên kia vang lên tiếng nói của trưởng phòng tổ chức cán bộ. Cái giọng bình tĩnh vốn có của anh khiến ông bực bội. Ông áp chặt ống nghe vào tai dường như sọ bỏ sót bất cứ một chi tiết nào:
A lô, đồng chí giám đốc ạ. Vâng, tôi đây, trưởng phòng tổ chức cán bộ đây. Đồng chí bảo sao? À, vâng tôi đang ở nhà anh Nguyễn Tường Mnh. Anh ấy khoẻ rồi. Tỉnh táo lắm. Chẳng có triệu chứng nào của căn bệnh tâm thần đâu. Anh ấy đang nằm ở phòng bên. Tôi chưa đề
cập đến câu chuyện qua. Cứ để anh ấy nghỉ ngơi đã, vội gì. Đồng chí hỏi anh ấy ăn ở sao à? Vậy ra đồng chí chưa đến đây bao giờ? Nói với đồng chí thế nào đây nhỉ? Vâng, đơn giản. Đơn giản đến mức luộm thuộm. Thực tình nó chẳng ra vẻ một cái nhà. Trừ cái giường, một bàn viết và một đống sách vở thì không có cái gì đáng giá. Không, chẳng có dấu hiệu gì của một cuộc sống phóng túng. Tôi đã xem xét tủ quần áo của Minh, chỉ lèo tèo vài bộ, trong đó có mấy bộ đồ lính. Sáng nay tôi may mắn gặp người bạn thân của Minh là phóng viên một tờ báo. Anh bạn ấy kéo tôi đi uống cà phê và kể chi tiết về câu chuyện hồi hôm. Anh đã xem đêm biểu diễn nhạc trẻ hôm qua là đêm thứ hai. Đêm trước anh đến rủ Minh đi nhưng Minh từ chối. Sau chót vì nể tình người bạn nên Minh cũng đi. Vào khoảng giữa buổi biểu diễn, đâu như tiết mục của Thuỳ Lan thì Minh đột ngột phát bệnh đau đầu và sau đó bỏ về. Đêm thứ hai, tức là đêm qua, Không hiểu sau Minh lại đến rủ anh đi. Nhìn nét mặt khẩn cầu của Minh anh biết không thể làm khác, mặc dù anh có nhận thấy ở Minh một vẻ gì đó hơi lạ và có lẽ Minh đã uống khá nhiều rượu. Điều đáng chú ý là cũng đúng vào tiết mục của Thuỳ Lan thì câu chuyện không hay đã xảy ra. Tự nhiên anh thấy rõ Minh ôm đầu rồi nhảy dựng lên như một con bệnh thần kinh. Minh đấm đá túi bụi cho đến lúc người ta giữ được Minh lại…
Khi giám đốc đẩy cửa căn phòng thì Minh đang ngồi trước bàn làm việc của mình. Anh chưa kịp đứng dậy thì giám đốc đã nhanh nhẹn bước vào. Ông quan sát một thoáng căn phòng rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Minh. Ông nheo mắt:
- -Anh sống thế này phải không?
-Thưa đồng chí bí thư…
Giám đốc vội xua tay:
-Không thưa gởi gì hết. Tôi đến đây không phải với một tư cách bí thư đảng uỷ hay giám đốc. Tôi đến với tư cách với người bạn của cha anh. Rõ rồi chứ. Anh hãy kể tỉ mỉ cho tôi nghe câu chuyện đầu đuôi ra sao. Xin lỗi là tôi muốn được nghe những lời nói thật.
-Tôi không cố ý giấu giếm điều gì. Mà giấu làm sao được. Nhưng trước khi bắt đầu câu chuyện tôi muốn nhờ đồng chí bí thư điều này – Minh đột ngột đứng dậy, mở khoá ngăn tủ lấy ra một tấm thẻ màu đỏ và quay lại bàn làm việc – Đây là tấm thẻ Đảng viên của tôi, đồng chí vui lòng giữ giúp. Nếu đồng chí thấy tôi không còn đủ tư cách đảng viên, tôi xin gửi lại Đảng. Còn bây giờ tôi sẽ thực hiện yêu cầu mà đồng chí đề ra. Tuy nhiên trước khi kể lại câu chuyện đêm rồi, tôi xin kể lại câu chuyện cách đây tám năm, ấy là vào năm 1973, sau khi hiệp định Pa – ri về Việt Nam vừa được ký kết…
*
*
*
… Đến bốn giờ chiều thì trận địa của tiểu đoàn gần như im hẳn tiếng súng. Giặc đã làm chủ được trận địa. Buổi tối hôm trước, tôi và tiểu đoàn trưởng đi kiểm tra lại khu vực gò Me xem có thể ém quân được vài bữa nữa không. Nhưng chúng tôi đã thất vọng. Cả một vùng đất rậm rạp cây trái sau những loạt pháo bầy, những trận bom B52 đã trở thành bình địa. Chỉ còn sót lại vài ba thân cây cụt ngọn đứng chơ vơ. Tất cả các dãy hầm đều bị đánh sập. Đất bùn nhão như nước. Quang cảnh hoang tàn một cách đáng sợ.
Vậy là tiểu đoàn chỉ còn cách nằm chờ địch trong cái trận địa hình nhỏ bằng bàn tay, với hơn mười tay súng. Trận đánh nhất định sẽ ác liệt. Địa hình không thể cho phép cách nào khác hơn là tổ chức tuyến phòng ngự hàng ngang, các bộ phận không thể chi viện cho nhau, địch vào mũi nào mũi đó đánh. Trước khi vào trận, tiểu đoàn hạ quyết tâm, chiến đấu đến người lính cuối cùng.
Từ sáng sớm mọi người đã phải gói ghém gọn gàng tất cả. Anh nuôi phân phát cho mỗi người một nắm cơm. Đó là khẩu phần của cả ngày.
Khoảng từ 6 giờ địch từ hai hướng tràn về phía trận địa. Ban đầu là pháo. Pháo bắn dồn dập. Mảnh đạn cắm xuống mặt đất phầm phập. Các cửa hầm rung lên. Sau đó là tiếng đại liên M79, M16, xen lẫn tiếng AK đĩnh đạc từng hơi dài, quyết liệt.
Chừng một giờ sau, tiếng súng coi im bặt. Chiến trường im lặng một cách đáng sợ. Sau đó tiếng đầm già vè vè lượn trên đầu. Sau đầm già, bọn phản lực ầm lao tới và những quả bom đen trũi rơi xuống. Mặt đất không ngớt rung chuyển.
Sau đợt bom, tiếng sung con lại nổ ran. Rồi lại bom. Cứ thế kéo dài hàng chục lần. Khoảng gần bốn giờ, tôi nghe ở mũi chính diện tiếng súng bắt đầu rời rạc. Có thê trận đánh kết thúc một cách bất lợi. Ở mũi bắc gần như chỉ còn một cây súng AK mà tôi biết chắc là cây súng của tiểu đoàn trưởng Tuấn nhờ cách bắn độc đáo của anh. Nhưng rồi tiếng súng im bặt. Tôi nghe có tiếng súng ngắn và tiếng bọn giặc la lối ầm ĩ.
-Đ. Má, nó đấy, thằng chỉ huy, bắt lấy nó.
Đứng lại, giơ tay lên.
-Đ. má , bắt sống nó nghe các con. Thằng nào bắt chết phải đền mạng đó.
Tôi nghiến răng: thôi thế là ông Tuấn tróc hầm rồi. Tôi đếm được mười tiếng súng ngắn ròi im.
Nhưng tiếng la hét lại rộ lên:
-Bắt được rồi, tụi bây.
-Đ. má , thằngnày là việt cộng hạng gộc. Cứng đầu thiệt.
Bỗng một tiếng nổ gầm lên bắn tung bụi đất trước mặt. Tiếng la hét lặng đi. Đó là tiếng nổ của một trái da láng. Tôi siết chặt vòng cò khẩu AK nhưng hai mắt bỗng nhoà đi.
…Lúc ấy ở mũi của tôi, chỉ còn lại mình tôi. Khi bọn địch sắp tràn vào cái hầm cuối cùng tôi bất ngờ tung một trái thủ pháo và lăn mình sang một cộng sự khác. Lúc này tôi đã nằm giữa vòng vây. Xung quanh lố nhố bóng những tên lính dù.
Lợi dụng lúc trái pháo của Tuấn đang gây hoang mang cho quân địch tôi kéo luôn cả một băng đạn, ném trái thủ pháo định dành “cưa đôi” vào phút cuối cùng. Tôi nhảy khỏi cộng sự nhoài người lăn xuống rạch. Tôi định long theo bờ rạch nhưng cả hai hướng đều có tiếng súng nổ. Vì vậy tôi đành chém vè tại chỗ dưới đám lục bình. Tiếng súng tạm im.
Bốn phía nồng nặc mùi khói đạn. Từng tốp lính thay nhau đi ven hai bờ rạch và chĩa mũi súng vào bất cứ cái gì còn sót lại. Mấy lần chúng nổ súng trước mặt tôi. Và một lần viên M16 xẹt qua đầu, bỏng rát. chỉ một chút xíu nữa là có thể “ rửa chân lên bàn thờ ăn cơm nóng”.
Bọn địch kéo đến khoảng đất phía trên lôi xác mấy chiến sĩ . Tiếng la ó rộ lên. Một thằng lính đã chân vào một cái xác và cất giọng lè nhè như ống bơ gỉ:
– Bọn nó nhồi vào đầu hắn cái gì mà hắn gan cùng mình vậy cà. Một mình nó xơi mất hơn một tiểu đội.
Tôi hé mắt nhìn lên và nhận ra xác tiểu đoàn trưởng Tuấn nhờ vóc dáng to lớn của anh. Quần áo anh rách bươm vì thủ pháo.
Cơn dông ầm ĩ kéo tới. Bầu trời đen kịt, mọng nước. Gió u u thổi trên đồng trống. Trời chuyển mưa.
Lúc trời tối hẳn thì cơn mưa vừa dứt. Bọn lính dù cứ lầm bầm chửi rủa lẫn nhau, chửi rủa cơn mưa chó má vừa dũ những tấm phông xô sũng nước. Một thằng lính đi lại bờ rạch vạch quần đái tổng tổng trên đầu tôi vừa i ỉ ca một câu vọng cổ. Tiếng một thằng khác sừng sộ:
-Đ. má có im cái mồm không đi vậy. Việt cộng nó lấy họng cả lũ bây giờ.
-Đừng có nhát khỉ con ơi. Việt cộng có còn cái con khẹc qua đây nè. Thằng nào có la dô mở nghe “ Gái hậu phương gửi trai tuyền tuyến” coi. Hết ngày dài lại đêm thâu, cuộc đời chó đẻ bảy con tụi bây ơi.
Tiếng la dô mở đánh tạch rồi một giọng ca nhừa nhựa rên rỉ như tiếng khóc bay ra. Tiếng bọn lính dù ồ lên:
-Chà mùi dữ!
Thuỳ Lan mà cưng, giọng ca thời thượng đó nghe.
Nếu hốt gọn tụi nó thì ngày mai chúng mình có thể ung dung ngồi ở Sài Gòn nghe em ca rồi. Mà con nhỏ chịu chơi lắm nghe, hết can.
Mấy thằng lính châm thuốc hút. Mùi Ru bi thơm đến bờ rạch. Giọng cô ca sĩ vẫn eo éo bay ra. Đột nhiên, một ánh chớp loé lên khiến tôi nhìn rõ một cái xác sũng nước của tiểu đoàn trưởng. Tôi rùng mình, cắn răng leo lên bờ rạch, nhằm thẳng cái la dô kéo gần hết một băng đạn. Có tiếng la oai oái. Tôi cắm đầu chạy. Đạn chiu chíu sau lưng tôi nhưng không một thằng nào giám đuổi theo.
… Vượt qua lộ đỏ và trảng “ cá rô”, vào khoảng nửa đêm tôi về đến gần ấp cũ. Cách ấp khoảng vài trăm mét, tôi chựng lại. Không còn đèn tín hiệu quen thuộc. Đây là điểm có động. Tôi tìm một bụi cây nhỏ chui vào đó và ngủ thiếp đi.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng bạch. Tôi thận trọng đi về phía ngôi nhà. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là ngôi nhà đã cháy trụi, trước cửa nhà ngổn ngang một đống đồ hộp bị lưỡi lê xăm nát. Những nắm cơm bị mưa xối rửa gần hết. Má Năm nằm sấp, một viên đạn xuyên qua đầu. Xế chỗ má Năm nằm là út Liên quần áo bị xé nát. Một chiếc đầm già từ phía Bến Cát vè vè bay lên. Tiếng loa chiêu hồi lúc gần lúc xa: “ Anh em cán binh Việt Cộng chú ý…” Rồi một giọng ca nhừa nhựa, ướt át èo uột bay ra. Tôi đứng lặng như trời trồng. Rồi đột nhiên tôi giương súng lên trời nhắm thẳng chiếc đầm già kéo hết một băng đạn…
Minh đột ngột dừng câu chuyện. Anh run run rít một ly nước đưa lên môi tu ừng ực. Nước lạnh làm anh tỉnh hẳn. Anh rút khăn tay lau miệng và tiếp tục câu chuyện bằng giọng bình tĩnh lạ lùng:
-Bây giờ tôi xin trở lại câu chuyện hồi hôm. Đúng là tôi có uống rượu. Ngay từ đêm trước tôi đã định không đi nhưng vì nể tình người bạn. Đêm ấy chỉ nghe được nửa chương trình là đầu óc tôi muốn điên lên. Khi đến tiết mục của Thuỳ Lan thì tôi không chịu nổi nữa. Đêm thứ hai, tôi cố đi để kiểm chứng lại những suy nghĩ của mình. Để đủ can đảm tôi phải nhờ sự can thiệp của rượu. Đồng chí bảo sao? Không, đúng là cô ta đó. Tôi còn nhớ như in tấm hình chụp lúc cô ta đi hát ở sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ với tấm băng “ ném bom Hà Nội thì sẽ có hoà bình” in đầy trên các báo Sài Gòn lúc đó. Cũng có thể cô ta bị bắt buộc. Nay cô ta có đủ thời giờ để lột xác chăng. Đáng tiếc là điều kỳ diệu đó không xảy ra với cô ta. Nghe cô hát tôi bỗng rùng mình. Đây là một bài hát mới của một nhạc sĩ quen thuộc? Không, vẫn là cái giọng ca nhừa nhựa, ươn nướt mà tôi đã bọn lính Sài Gòn mở trong cái đêm mà tiểu đoàn tôi bị lấn chiếm ấy. Cả phần giai điệu cũng có cái gì quen quen. Mồ hôi tôi tươm ra ướt đẫm lưng áo sơ mi. Tiếng hát của Thuỳ Lan cứ xoắn lấy đầu óc tôi hệt như giọng ca eo éo phát ra từ chiếc loa chiêu hồi trên chiếc L19. Bóng dáng nhún nhảy của cô ca sĩ mờ đi. Đột nhiên, tiếng hát ấy nổ tung ra thành những tiếng bom xối xả rội lên đầu tôi. Trước mắt tôi bỗng hiện lên cái xác tươm máu của người tiểu đoàn trưởng. Xung quanh như lố nhố bóng những tên lính dù. Và sau đó là cái kết cục đáng xấu hổ như đồng chí đã biết đấy.
Khi giám đốc rời nhà Minh thì đã gần trưa. Bầu trời xanh không một gợn mây. Sau những cơn mưa đầu mùa hàng me đã bắt đầu thay lá. Một cơn gió nhẹ thổi qua. Vài chiếc lá vàng đứt khỏi cuống bay ra như còn vương vấn luyến tiếc một cái gì nhưng cuối cùng cũng rơi xuống đất. Giám đốc mỉm cười, xoa cái cằm lởm chởm râu, lẩm bẩm nói một minh: “ Ôi! Những người lính… Những người lính…”
Mặt trời vẫn xoè muôn tia nắng như muôn tia máu. Một ngày mới bắt đầu.
Người đến trước ở thác Mơ
Truyện ngắn
Tình cờ tôi đi cùng anh trên một chuyến xe.
Khó đoán được là anh bao nhiêu tuổi. Vẻ mặt khắc khổ, lưng hơi còng. Anh có giọng nói nửa như Trung, nửa như ra Nam, lại lơ lớ như người chưa rành tiếng Việt. Nhưng vì anh rất trầm lặng nên cũng khó biết chính thức anh là người địa phương nào. Mặc dù tôi là người rất rành về món đó. Chỉ cần ai nói đôi tiếng là tôi có thể đoán chắc là anh ta là người ở đâu.
Đến huyện tôi tình cờ lại được bố trí ở chung với anh một phòng khách.
Chúng tôi chuyện trò đôi lời về vùng đất mà bọn tôi đang đến. Hoá ra anh cởi mở hơn tôi tưởng. Nhưng tôi không thể đoán được quê của anh. Càng cố nghe thì tôi càng như lạc vào một bát quái trận đồ. Từ ngữ anh dùng loạn cả.
Tôi định bụng nếu có dịp thì sẽ hỏi anh.
Buổi tối cơm nước xong chúng tôi ngồi uống trà trên bàn đá kê ở mái hiên chính giữa nhà khách. Đồng chí chủ tịch đích thân pha cho chúng tôi mấy ly cà phê. Cà phê thứ thiệt bốc lên một mùi thơm quyến rũ đến nỗi tôi đã định từ chối khéo mà không đành. Tôi không quen uống cà phê tối. Thần kinh tôi không được tốt lắm. Anh bạn tôi nâng ly cà phê sóng sánh lên, xoay xoay tren tay như chiêm ngưỡng một công trình nghệ thuật, cười:
- Đã lâu lắm rồi tôi mới uống lại cà phê Phước Long. Ngày xưa thì khác. Cơm thì củ chụp, củ nần mà sáng nào cũng phải một cữ cà phê.
Thì ra anh là người đã từng ở Phước Long.
Sau khi uống hết mấy ly cà phê, anh xin phép chúng tôi dọn dẹp cái bàn. Anh lau khô nó một cách kỹ lưỡng và thận trọng. Sau đó anh vào phòng lấy một cái xắc cốt cũ. Anh lục trong đó một hồi rồi rút ra một tờ giấy đã ố vàng và trải rộng trên mặt bàn.
Một tấm bản đồ cũ,
Tôi ghé mắt nhìn qua vai anh.
Một tấm bản đồ Phước Long rất quen thuộc đối với tôi.
Nhưng trên tấm bản đồ, lạ thay, có rất nhiều dấu bút bic khoanh tròn, những ngôi sao đỏ, rải rác gần như chỗ nào cũng có.
Tôi thấy anh đưa tay rà lên khu vực Thác Mơ một lúc lâu. Sau đó anh lấy ra một tấm bản đồ khác nhỏ hơn.
Tấm bản đồ khu vực Thác Mơ.
Nhìn anh loay hoay trên tấm bản đồ, tôi chợt nhớ đến công trình thuỷ điện sẽ xây dựng nay mai, tôi hỏi:
- Anh là cán bộ khảo sát à?
Anh ngẩng lên nhìn tôi, anh như người thất thần một lúc lâu. Anh lắc đầu:
- Không.
Tôi tò mò:
- Vậy còn những chấm đỏ, những ngôi sao? Tấm bản đồ Thác Mơ?
- Đấy là những nơi tôi đã đi qua trong những cuộc chiến tranh. Còn tấm bản đồ khu vực Thác Mơ – Anh lặng im hồi lâu rồi chậm rãi nói – Tôi giữ nó vì vợ chưa cưới của tôi đã ngã xuống ở đó.
Anh gấp tấm bản đồ lại.
Hai chúng tôi cùng im lặng.
Một ngọn gió mồ côi bất chợt thổi đến. Tôi thoáng rùng mình.
Không rõ là anh đi đâu.
Khoảng 9 giờ, lúc điện đã tắt mới thấy anh trở về. Tôi đã buông mùng. Nhìn bóng anh lọ mọ trong đêm, tôi hỏi:
- Anh đi đâu về vậy?
Anh đáp:
- Tôi ra chỗ chị Bảy Tuyết. Anh biết chị Bảy Tuyết chớ?
- Có phải chị Bảy Tuyết hội trưởng hội phụ nữ nguyên là đội trưởng đội công tác Bà Rá lừng danh không?
Anh thở dài:
- Đúng rồi đó. Tôi là lính cũ của chỉ mà. Trời ơi nói mà thấy thương hết sức anh ơi. Hồi xưa chị ấy bự con vậy đó. Mà khoẻ tàn canh anh ơi. Một bao gạo chỉ xanh hai đứa tụi tôi khiêng lặc lè mà chị chỉ hất một cái lên vai, mặt không biến sắc. Bọn tôi gọi đùa là chị Bảy bì lu. Vậy mà bây giờ người chỉ còn một nhúm con. Mấy chục mảnh đạn còn trong người. Nhìn muốn ứa nước mắt. Nhưng chị vẫn vui. Nghe nói đáng lẽ đội công tác bọn tôi được tuyên dương anh hùng, cả chị nữa. Nhưng kẹt vì có một tên phản bội, thằng Vũ Đình Ta chắc anh biết rồi. Con sâu làm dầu nồi canh. Nhưng tôi nghĩ con sâu là con sâu,
còn nồi canh vẫn cứ là nồi canh chớ. Không lẽ vì thằng phản bội đó mà dân tộc Việt Nam mình không phải là dân tộc anh hùng nữa ư? Vô lý.
Tôi hiểu là anh nói đúng. Nhưng tôi nằm im vì chưa rõ gốc ngọn câu chuyện ra sao. Ngỡ là tôi ngủ, anh chui vô mùng, nằm.
Tôi cố dỗ giấc ngủ, nhưng càng giỗ thì càng tỉnh. Ly cà phê quái ác đã tác động đến thần kinh tôi. Nhìn sang giường anh, tôi thấy anh cứ rột rẹt hoài. Một lát tôi thấy anh trở dậy, quẹt diêm châm thuốc, hút. Đốm lửa rực lên soi rõ khuôn mặt rắn rỏi trầm tư của anh. Không nghiền thuốc nhưng ngửi thấy mùi thơm của nó giữa đêm hôm khuya khoắt của vùng cao se lạnh, tôi chợt thèm. Tôi lồm cồm ngồi dậy, vén mùng chui ra:
- Anh cho tôi xin điếu thuốc.
Đưa điếu thuốc chờ tôi mồi lửa xong, anh hỏi:
- Anh không ngủ được à?
Tôi cười:
- Ừ, ly cà phê nó hại tôi. Còn anh?
- Tôi thì không phải tại cà phê. Tôi uống cả ly cối cũng không nhằm nhè gì đâu. Nhưng lâu quá mới trở lại. Bao nhiêu kỷ niệm cứ ập đến…
Tôi chợt nhớ đến tấm bản đồ khu vực Thác Mơ của anh. Một ý nghĩ loé lên. Cũng có thể là một câu chuyện hay. Đêm mất ngủ thường dài. Tính tò mò của tôi nổi lên:
- Khi hồi anh bảo vợ chưa cưới của anh hy sinh ở Thác Mơ à?
Anh gật đầu.
- Anh kể nghe, được không?
Anh ngồi im hồi lâu, rít một hơi thuốc thật dài và phả khói mù mịt lên trần nhà:
- Được. Nhưng chuyện dài lắm. Sợ hại sức khoẻ của anh…
Tôi may mắn:
- Đằng nào thì chúng ta cũng mất ngủ đêm nay. Vả lại câu chuyện của anh chắc cũng có nhiều điều bổ ích. Tôi cũng hoạt động ở vùng này nhiều năm. Năm 75 tôi làm nhiệm vụ đón dân Phước Long ra dựng làng ở vùng Bàu Lách.
Qua đốm lửa điếu thuốc tôi thấy mắt anh sáng rực lên. Sau tiếng “vậy à” vẻ mừng rỡ, anh nắm chặt tay tôi và bắt đầu câu chuyện…
Người ta gọi tôi là Cường, Sáu Cường.
Quê tôi ở một vùng cát trắng. Thuận Hải mà anh.
Dường như tôi chưa thấy nơi nào nóng dữ dội như ở đây. Bước ra khỏi cửa đã gặp ngay một vùng nắng loá. Mùa khô hanh hao, những ngọn gió lồng như ngựa hoang trên không gian khao khan cát bụi. Bầu trời xanh lơ chót vót, không một gợn mây. Gai xương rồng chảy nhựa vì nắng nóng. Chân trời bị phân cắt bởi những cồn cát trắng, những dèm núi xanh và những truông dài lô xô cỏ dại.
Tuổi thơ của tôi đã đi qua những năm tháng cháy người đó. Người tôi đen như củ tam thất và tóc đỏ như râu bắp. Tôi có nước da như anh thấy đấy, muỗi mòng đều phải chê.
Nhưng cái nóng của thiên nhiên vẫn chưa thấm vào đâu so với cái ngột ngạt đằng sau vòng rào kẽm gai. Gia đình tôi được liệt vào hạng gia đình chống đối quốc gia. Cha tôi là Việt cộng thứ thiệt cò mẹ tôi vốn là cơ sở nuối giấu cách mạng nhiêu năm.
Một hôm, trụ sở hội đồng xã bốc cháy.
Xã trưởng Khoái gom một số gia đình Việt Cộng ròng trong đó có gia đình tôi về trước ngôi nhà cháy, giữa buổi trưa.
Một trung đội dân về bồng súng cách chúng tôi vài chục thước.
Chúng dồn chúng tôi đứng giữa sân cát. Mẹ tôi một tay ôm em bé ba tuổi của tôi, một tay nắm tay tối lúc ấy vừa tròn mười tuổi.
Xã trưởng Khoái là một tên ác ôn khét tiếng gian ác, đã bao lần bị ta áp sát hụt. Nhưng cứ mỗi lần sống sót, độ gian ác của nó lại tăng thêm. Dưới họng súng của hắn bao nhiêu máu đã chảy. Mỗi lần giết được Viện Cộng, hắn xẻo ngay một cái tai xau vào chuỗi dây phơi khô.
Bây giờ hắn đang chống nạnh trước mặt chúng tôi, mắt đỏ nọc những tia máu.
- Sao, lũ ăn cơm quốc gia mà lại thờ ma cộng sản. Hôm qua đứa nào đốt nhà hội đồng. Đứa nào trong số những tên Việt Cộng dính dáng đến tụi bây về làng. Chúng bây nói ngay thì sẽ có thưởng. Bằng không ít nhất phải có một đứa thế mạng. Bộ sưu tập tai của tao đang thiếu cái thứ 100.
Im lặng.
Xã trưởng Khoái nghiến răng trèo trẹo. Hắn gằn giọng:
- Sao? Nói không? Đứa nào? Đ…ứ…a n…à…o?
Hắn giận dữ nhìn hàng người đang cúi gằm xuống đất. Hắn rút khẩu côn đui, lên đạn cái rốp. Họng súng lạnh tanh của hắn kê sát cằm từng người, hất ngược lên:
- Đứa nào? Nói đi? Mày phải không? Hay chồng mày? Con mày? Đêm qua tụi nó có về làng chớ?
Đến người thứ mười mẹ tôi thì hắn chịu hết nổi. Không khí im lặng đến ngạt thở làm hắn rùng mình. Khi họng súng của hắn hất ngược cằm của mẹ tôi lên, bà đã không giấu nổi một tia mắt. Hắn lập tức chộp ngực mẹ tôi, lôi ra ngoài hàng:
- Tao đã đoán ngay là mày. Có sai đâu. Chỉ cần nhìn ánh mắt mày là tao thấy hết. Sao? Con Việt Cộng nòi, đúng chồng mày chớ? Đêm qua nó về phải không?
Đứa em gái tôi kinh hoàng đến mức không giám khóc mặc dù miệng nó méo xệch đi. Tôi cũng vậy. Nhưng mẹ tôi rất bình tĩnh. Bà thản nhiên nhìn tên xã trưởng:
- Ông xã nói chi lạ. Đảm bảo an ninh là việc của chánh quyền quốc gia. Bầy tui là dân làm sao biết được mà ông xã hỏi. Còn chồng tui, ổng đi đâu biệt tăm mấy năm nay. Bóng chim tăm cá tui đâu có biết. Ông xã tìm được ổng thì phước cho mẹ con tui…
Xã trưởng gầm lên:
- Thôi đừng có lý sự cùn. Có khai không thì nói ngay một tiếng. Dài dòng chi, vô ích.
- Tui là dân làm ăn biết chi mà khai, ông xã có bắn tui cũng vậy thôi.
Xã trưởng Khoái đột nhiên cười sàng sặc:
- Bắn ư. Đâu có đơn giản thế. Ai để cho tụi mày chết ngon lành vậy bao giờ. Tao hỏi lần cuối cùng: khai không?
Mẹ tôi lắc đầu.
Xã trưởng Khoái hừm một tiếng:
- Ngon dữ ta. Gan dữ ta. Thử xem mày gan góc được đến bao giờ. Đừng có trách là tao ác. Tao không ác với chúng mày thì chúng mày ác với tao. Hắn chống mắt lên mà coi.
Hắn quay về phía trung đội dân vệ:
- Chuẩn bị.
Mấy chục khẩu súng M16 lên đạn một lượt. Tiếng kim khí va vào nhau lạnh tanh. Tôi rợn người.
Hắn kêu một tên lính đứng đầu hàng quân lại, thì thầm. Mọi người nín thở. Tên lính từ từ bước vềp phía mẹ tôi, nhanh như chớp bứt đứa em gái tôi khỏi tay bà như bứt một trái non khỏi cành lá. Em tôi thét lên một tiếng xé ruột. Mẹ tôi chồm theo. Nhưng bà đã bị hai cánh tay lực lưỡng siết lại như hai gọng kìm.
Tên lính mang em tôi ra khỏi giữa sân cát. Ở đó đã có một tên lính khác đã đào một hố nhỏ. Chúng hè nhau đẩy em tôi xuống hố vùi cát đến ngang gần cổ. Tiếng em tôi đã khan đặc. Chỉ thấy cái miệng há ra, hớp hớp. Tôi gào lên và lao đi. Nhưng một cánh tay hộ pháp đã chụp ngay gáy tôi nhấc bổng lên như nhấc một con ngoé.
Chẳng hiểu bằng sức mạnh nào, mẹ tôi đã hất tung được hai gọng kìm của tên lính. Nhưng bà chỉ chạy được hai bước. Tôi nghe rõ tiếng cò súng của xã trưởng Khoái mổ vào đầu kim hoả, khô khốc. Mẹ tôi lảo đảo. Vệt máu đỏ loang đẫm lưng áo. Mẹ tôi ngã sập mặt xuống cát, miệng còn kêu một tiếng kêu tuyệt vọng “ con ơi”…
Nước mắt tôi nhoà đi.
Em tôi đã chết trên cát bỏng.
Bộ sưu tập tai của tên ác ôn Khoái có thêm cái tai thứ 101…
Tôi nghe rõ tiếng Cường nuốt nước bọt đến ực. Tôi khẽ rùng mình. Lần thứ hai tôi rùng mình. Trong đêm vắng, tiếng ầm ào của con Thác Mơ lớn dần lên. Tôi lặng im nhìn Cường loay hoay một hồi. Rồi anh quẹt diêm. Sau màn ánh sáng yếu ớt của que diêm tôi thấy đôi mắt anh rực lên như hai cục lửa.
Cường tiếp tục kể:
… Sau cái chết của mẹ và em , tôi thề tìm cách giết xã trưởng Khoái. Nhưng tôi còn quá nhỏ. Một người bà con đưa tôi vào Sài Gòn. Năm 15 tuổi, tôi trốn khỏi nhà người bà con đi theo quân giải phóng. Đầu tiên tôi ở lực lượng bộ đội Phước Long. Vài năm sau tôi được điều động xuống một đôi công tác vùng sâu xây dựng cơ sở cách mạng.
Đội công tác võ trang tuyên truyền của chúng tôi đầu tiên có ba đồng chí được phân công về xã Bù Lố. Xã có hai ấp. Lực lượng đóng ở đây là một đại đội nghĩa quân. Trước ta có cơ sở ở đây nhưng từ sau 60 cơ sở bị vỡ hết. Xã bị liệt vào loại xã trắng. nhiệm vụ của chúng tôi là bằng bất cứ giá nàov cũng phải xây dựng được cơ sở cách mạng ở xã này. Cứ của chúng tôi có cách Bù Lố khoảng ba tiếng đồng hồ đi bộ. Bữa đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với khoảng hai trăm đồng bào dân tộc. Cũng không làm gì được cụ thể, chỉ tuyên truyền chung chung về đường lối cách mạng, chính sách của mặt trận.
Nói để anh nghe, lần ấy chúng tôi suýt chui luôn vào trụ sở hội đồng cho chúng còng đầu rồi. Chúng tôi đột nhập ban đêm, trụ lại một cụm rừng nhỏ. Mờ sáng trở dậy, bọn tôi hết hồn thấy mình nằm trong một khoảng rừng nhỏ chừng 50 mét vuông. Qua con suối, cách 100 mét là nhà trụ sở hội đồng. Nghe rõ tiếng trò chuyện của bọn lính. Chúng tôi nhịn đói nhịn khát suốt ngày. Không dám lấy nước, không dám nhóm lửa và trò chuyện. Chúng tôi nằm đó đến tối rút qua được một cụm rừng khác cách trụ sở hội đồng 500 mét. Chúng tôi dựa vào những đống lửa đốt rãy của đồng bào để nấu cơm ăn. Sáng hôm sau tổ chức tuyên truyền cho số đồng bào như tôi đã nói.
Tôi cũng không nhớ là chúng tôi đi về như vậy mấy lần. Chỉ nhớ mỗi lần như vậy khoảng một tuần lễ. Ba tháng sau mới bắt rễ được một người. Nhưng lần ấy bị bọn điệp ngầm chỉ điểm. Bọn tôi ham quá mà sinh ra thiếu cảnh giác. Và phải trả giá. Quận trưởng Đức Phong huy động 3 đại đội nghĩa quân phục kích trên đường chúng tôi về. Chúng kích ngay đoạn có chiếc cầu cây qua con suối dài 4 mét. Ngay sau loạt đạn đầu tiên hai đồng chí té nhào xuống. Tôi cũng thấy nhói lên ở chân. Tôi vừa tập tễnh chạy vừa quay lại néo cò khẩu cạc bin, tuông qua rừng cây, gai góc. Chạy đến lúc không còn nghe tiếng súng nữa. Tôi ngất đi. Phần thì kiệt sức vì chạy, phần thì máu ra nhiều.
Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên lưng một cô gái. Mồ hôi ưỡt đẫm lưng áo cô gái thấm sang cả áo tôi. Nghe rõ tiếng cô thở hổn hển từng hồi dài. Tôi như người trôi bồng bềnh trên mây không biết đã bao lâu. Rồi thấy mình nằm trong một cái chòi rẫy đã cũ nát. Cạnh tôi là một cô gái Stiêng. Thấy tôi mở mắt cô ta mừng rỡ , hỏi bằng một thứ tiếng kinh rất sành sỏi:
- Anh tỉnh rồi à?
Tôi gật đầu.
Tôi nhìn cô gái và lờ mờ nhớ ra hoàn cảnh của mình. Tôi hỏi:
- Tôi đang ở đâu đây?
Cô gái đặt tay lên trán tôi:
- Anh yên tâm anh đang ở nơi an toàn. Anh ráng nghỉ cho khoẻ.
- Còn hai đồng chí của tôi?
Mặt cô gái thoáng tối lại. Cô nói rất khẽ:
- Các anh ấy hy sinh rồi. Bọn giặc đã cướp xác các anh ấy mang về quận để lĩnh thưởng.
Tôi căn răng. Vậy là lại phải bắt đầu lại từ đầu. Tôi nhìn cô gái. Bây giờ tôi mới chú ý đến cô. Phải nói là cô rất xinh. Sống mũi thẳng, thanh như sống mũi của một cô gái Ấn Độ. Nước da nâu thẫm. Cặp lông mày như hai nét vẻ. Cái miệng nhỏ mím chặt, vẻ kiên nghị. Tôi đặc biệt cảm tình với đôi mắt của cô, hơi buồn nhưng sáng và linh lợi lạ lùng.
Cô gái ấy đã trở thành người định đoạt số phận của tôi. Tên cô là Hiêng.
Cô gái chăm sóc tôi khéo léo như một bà mẹ chăm con. Cô thường xuyên rửa các vết thương cho tôi. Và với tất cả các trí thức đã ngấm vào trong máu, cô chữa cho tôi bằng các môn thuốc lá cây mà cô có được từ trong lòng bà mẹ rừng vĩ đại. Không một viên thuốc tây, anh ạ. Vậy mà cuối cùng vết thương cũng lành. Rồi lên ra non. Tôi hồi phục dần.
Thịt rừng lúc ấy không thiếu. Chiến tranh bom đạn cũng chưa vào hồi khốc liệt. Nói chới chớ bấy giờ tôi còn ăn thịt nhiều hơn bây giờ, có bữa đang đói thì cô mang về cái đùi nai tơ, còn nóng. Mừng hết lơn anh ơi. Tôi hỏi:
- Cô kiếm ở đâu ra vậy?
Cô cười:
- Cọp nó kiếm giùm đấy.
- Nó không ăn hết à?
- Không, nó hoàn toàn chưa ăn một miếng nào.
- Sao lạ vậy?
- Đơn giản thôi. Chắc là nó muốn uống chút máu nóng thay vì đi tìm một nguồn suối mát. Đó cũng là một vui thú lớn lao của con cọp.
Tôi ngạc nhiên nhìn cô. Trước cô gái này tôi giống như một đứa trẻ nhỏ đang học chữ A, B, C về rừng. Còn những gì mà tôi chưa khám phá hết về cô ấy? Một thế giới phong phú luôn mới lạ và đầy bất ngờ. Tôi ngồi bần thần nhìn cô đặt chiếc đùi nai xuống và chuẩn bị nhóm lửa.
Tôi quên chưa kể với anh về cách lấy lửa của người Stiêng mà cô gái đã thực hành trước mắt tôi. Thật là khó tin anh ạ. Chỉ có một ống ồ lô và một sợi dây leo. Không còn dụng cụ nào khác. Tôi đã nghe người ta lấy lửa từ đá nhưng chưa hề quen biết người ta lấy lửa từ ống lồ ô. Ống lồ ô được chẻ đôi, có đục một lỗ nhỏ. Cô đặt sợi dây vào đúng lỗ nhỏ ấy, giữ ống lồ ô bằng hai chân. Tay cô căng mạnh sợi dây leo. Lạ thay chỉ sau bảy tám động tác qua lại như thế, khúc lồ ô nháng lửa. Động tác đơn giản, cô đã hướng dẫn cho tôi nhiều lần, nhưng không lần nào tôi thành công.
Khi tôi bắt đầu đi lại được, đôi lần cô dẫn tôi đi thăm bẫy. Trong thời gian này tôi đã học được nhiều điều mà cả một đời người chưa chắc học nổi. Có hai loại bẫy sau này sau này bọn tô ưa dùng. Một là bẫy lao. Cái lao giấu kín trong bụi rậm, gắn chặt ở đầu một dây cung rất mạnh. Cây cung này được căng ra bằng một một sợi dây leo xanh rất nhỏ, dai và gắn với một lò xo dùng làm làm cò lẫy rất chắc nhưng rất nhạy. Sợi dây leo này kéo ngang qua lối đi, vừa tầm cao của con thú. Chỉ cần một con vật nào đó đụng vào dây leo ấy là sẽ nhận một mũi tên chí tử và gục ngay tại chỗ.
Một loại bẫy khác là bẫy treo. Bẫy này cũng tương tự loại trên, chỉ thiếu cái lao. Cũng với loại lò xo cùng kiểu dùng để bắt các con vật trèo bốn chân. Nó được cột ở cây ngang tầm người đứng. Một khúc gò xéo, đi từ đất đến cây dùng làm thang giả cho con vật leo. Ở đầu thang, phía gần cây có một vòng mây có thòng lọng, gắn chặt vào một nhánh của thân cây. Trên vòng mây có đặt ngang một cây thước nhỏ như đường kính chia đôi vòng trong làm hai và mang cái lò xo của bẫy. Con thú leo lên cây theo cái thân cây bắc cầu sẽ dẫm chân vào đường kính lò xo. Lúc đó đầu nó tất yếu đã chui vào trong vòng. Khúc gỗ nặng dùng làm thang xệ xuống. Con thú lập tức bị thòng lọng siết lấy cổ.Những cái bẫy đơn giản ấy thường cho thịt ăn. Đôi khi là chồn, hoặc cheo. Sau mùa gặt các bẫy này không bẫy con mồi được nữa. Bọn tôi chuyển sang đi săn. Khẩu cạc bin của tôi phát huy tác dụng.
Mùa khô, nước cạn dần. Muốn đi săn chỉ cần tìm nguồn nước. Thú thường xuống đó để kiếm nước uống. Vì vậy cũng đỡ mất công đi tìm con mồi hơn.
Một hôm, đang đi nghe thấy tiếng một con nai. Tôi bấm cô gái dừng lại. Cô gái ra hiệu cho tôi im lặng, rồi giỏng tai, nghe ngóng. Cô kéo tôi, nói nhỏ:
- Đi thôi, nguy hiểm lắm.
Tôi ngạc nhiên nhìn hướng đi ngược lại của cô:
- Tôi nghe tiếng kêu ở hướng này.
Cô gái:
- Không phải nai đâu.
- Tôi nghe tiếng nai rõ ràng mà.
Cô gái giải thích vẻ sành sỏi:
- Đó là con cọp giả tiếng nai. Không phải chỉ có chúng ta mới di tìm mồi. Con cọp cũng đi tìm. Nó kêu để gọi nai về phía mình. Nhưng con nai không dễ lầm.
Vừa nói cô vừa kéo tôi đi. Nửa giờ sau chúng tôi đến một vùng rừng khác. Khu rừng rất rậm. Cô gái bảo tôi chờ và đi khuất sau thân cây.
Lát sau cô đem về một lá gừng rừng. Cô xếp nó thành hai chiều dài và đưa lên môi:
- Anh nghe nhé.
Cô thổi mạnh vào lá gừng. Một tiếng kêu rung lên:
- Anh thấy giống tiếng không?
Tôi gật đầu, giống thật. Lúc ấy cô mới ra lệnh:
- Anh chuẩn bị chỗ nấp đi. Nai thường hay giấu con nó ở những khu rừng rậm thế này. Em sẽ giả tiếng kêu của nai con mắc nạn. Nếu có, chúng sẽ lập tức lao về. Tình mẫu tử nai ghê lắm.
Cô đoán không sai. Chỉ sau vài ba tiếng kêu như vậy, một con nai cái hùng hổ lao về. và tôi chỉ việc chọn một tầm bắn thích hợp: Mà này, anh có buồn ngủ khi nghe chuyện ba hoa của tôi không?
Tôi nhìn Cường quẹt diêm, đốt một điếu thuốc khác đầu:
- Không! Chuyện thú vị lắm. Tôi không ngờ câu chuyện lại thú vị vậy đâu. Với một nha văn có thể viết thành một pho sách.
Cường cười, tiếng cười khục khục trong cổ họng:
- Anh nói đúng đấy! Có thể viết cả pho sách thật. Ngay cái cô gái của tôi thôi. Mỗi ngày là mỗi lần tôi ngạc nhiên về cô ấy. Anh đã đọc được những sách viết về các cuộc đấu bò tót chưa? Rồi à? Tôi đã đọc rồi. Nhưng trước khi đọc sách tôi đã chứng kiến cuộc đấu như vậy trong cuộc đời. Mà không phải ở Tây Ban Nha xa xôi đâu. Ở chính mảnh đất rừng núi Phước Long hẻo lánh này, anh ạ. Lần ấy chúng tôi gặp một con bò rừng độc đàn. Anh cũng biết bò rừng độc đàn hung sữ như thế nào rồi. Ác nỗi súng tôi hết đạn. Vũ khí duy nhất chỉ có một con rựa bén của cô gái. Tôi đang bối rối không biết xử trí ra sao thì cô đã ấn tôi nằm xuống. Còn cô băng qua cây cỏ và bụi rậm bọc về phía sau con bò. Tôi thấy cô trườn đi như một con rắn: Tôi nín thở. Thời gian trôi qua đi thật lâu. Cô gái đến gần con bò nhưng nó không hay biết gì cả. Đột nhiên tôi thấy cô vụt đứng dậy, vung dao. Đường dao vừa lia đi, ngay lập tức chiếc chân sau của con bò rừng đã rớt xuống. Con bò rừng lồng lên hung dữ. Nhưng nó chạy vô ích, nó chỉ còn ba chân. Cô gái theo sát con vật chạy trốn, như một con sư tử trong đấu trường không cho nó một phút nghỉ nghơi. Lợi dụng tư thế thích hợp, cô vung dao lần thứ hai. Thân sau con vật đổ ập xuống. Không trốn chạy được nữa, con vật chấp nhận cuộc chiến đấu. Nó chống hai chân trước, đầu ngẩng cao, dáng điệu giận dữ đầy hăm doạ, hai lỗ mũi phóng ra hai luồng khí, mắt đỏ nọc. Máu đỏ chảy ướt đẫm một khoảng đất rừng. Nhưng với hai chân còn lại làm sao thoát khỏi địch thủ. Bằng động tác dũng mãnh và khéo léo, cô đã chặt nốt hai chân cuối cùng của con bò rừng.
Tôi đứng chết trân như trời trồng, vừa sợ hãi vừa cảm phục. Trong đâu tôi dâng lên những ý nghĩ mới mẻ. Chẳng có kẻ thù nào khuất phục được những con người thông minh và dũng mãnh như vậy.
Hình như đó cũng chính là khởi đầu tình yêu của tôi.
Bây giờ, tôi quay lại câu chuyệnc chính. Với sự hoạt động tích cực của cô gái trong thời gian ngắn, tôi đã tổ chức được ở Bù Lố một chi bộ và cô được bầu làm bí thư.
Nhưng chiến tranh đã lan ra cả rừng núi. Bom đạn, thuốc độc hoá học Trút xuống vùng rừng. Lữ đoàn kỵ binh bay Mỹ được điều lên Phước Long.
Kẻ thù kiểm soát gắt gao các ấp chiếm lược. Chúng tôi lâm nạn thiếu gạo và thiếu muối.
Hiêng không được phép ra rẫy lâu, chỉ một ngày một lần, có khi năm bảy ngày mới ra được một lần. Số gạo cô mang rất ít đến mức tôi chỉ có thể nấu cháo để ăn.
Mỗi lần như vậy cô chỉ được mang theo một bữa cơm, cơm đã nấu sẵn chứ không phải là gạo. Chúng sục sạo từ chiếc gùi đi rẫy cho tới áo, quần. Số gạo ít ỏi mang được cô phải dàn mỏng trong túi ni lông độn vào ngực. Muối cô phải hoà vào bầu đựng nước, mới qua nổi con mắt cú vọ của kẻ thù.
Chính trong những ngày gian nan đó chúng tôi quyết định phá ấp chiến lược.
Một đêm, hàng ngàn dân Bù Lố đã tự tay cầm đuốc đốt cháy nhà mình, phá tan kìm kẹp của địch, dựng làng chiến đấu.
Sau khi bắt liên lạc với cấp trên, chúng tôi được rút về huyện, sau đó bổ sung về đội công tác Bà Rá.
Đó là những ngày cuối cùng tôi sống với Hiêng…
Cường dừng lại một lát như để lấy hơi. Ngoài sân tiếng con chó sủa bóng đang tru lên từng hồi dài. Dường như thấy lạnh, Cường rút tấm mền khoác len người sau đó anh tiếp tục kể:
- Cũng vào một đêm mùa khô se lạnh như hôm nay, chúng tôi được phái đi công tác. Chúng tôi có hai người: Hiêng và tôi. Vừa tới Thác Mơ chúng tôi bị phục kích. Chúng tôi vừa đánh vừa rút để bảo toàn lực lượng. Lần này không may tôi lại bị thương vào chân, kế ngay vết thương cũ. Tôi bị rớt lại phía sau. May mà bọn địch cũng không dám đuổi theo.
Khi bốn bên đã im tiếng súng, tôi thận trọng lết dậy tìm đường đi. vết thương ra máu khá nhiều. Tôi mặc cho gai góc cào vào vết thương đau điếng. Nhưng chỉ đi được một đoạn, tôi phải dừng lại nghỉ.
Chợt tôi nghe tiếng cành cây gãy đến rắc, tôi lăn vội vào một lùm cây chĩa mũi AK ra ngoài. Tôi nhìn thấy một mái tóc bù xù sau bờ đắp lờ mờ trong đêm. Tôi vừa toan néo cò tì nghe tiếng kêu nho nhỏ:
- Anh Cường, phải anh Cường không?
- Hiêng hả.
Hiêng bò vội lại nắm tay tôi mừng rỡ:
- Anh bị thương à?
- Ừ.
- Ở đâu.
- Ở chân.
- Đưa em xem.
Tôi đưa chân ra. Hiêng sờ lên vết thương. Không có gì băng bó cả. Bỗng tôi nghe cái soạt. Hiêng đã xé một tay áo băng cho tôi. Máu thôi chảy.
Tôi ráng sức đứng lên. Nhưng cái chân cứng đờ không chịu cử động. Hiêng xốc nách tôi:
- Để em dìu anh đi.
Chúng tôi đi như vậy không biết bao lâu. Khi thấy hơi thở của Hiêng đã hơi nặng, tôi đề nghị nghỉ.
Chúng tôi ngồi xuống một bãi cỏ đẫm sương. Tôi ngắt một cọng cỏ đưa lên miệng. Vị ngọt của cỏ làm tôi tỉnh táo. Chợt Hiêng quay sang thì thầm vào tai tôi:
- Anh có nghe nước réo không?
- Có, Thác Mơ đấy. Sau này hoà bình ở đây mà làm một nhà máy thuỷ điện thì tuyệt.
- Bù Lố mình liệu có điện không?
- Có chớ sao không. Điện sẽ phát sáng toàn vung rừng núi Phước Long này nữa chứ. Chúng ta đang chiến đấu cho cái ngày mai sáng sủa ấy đấy.
Hiêng khẽ cười:
- Anh sẽ ở lại đây luôn chứ.
- Nhất định rồi.
- Mãi mãi à.
- Mãi mãi.
Hiêng không nói gì nữa. Cô nhìn lên bầu trời đầy sao, hình như đang mơ tới một điều gì. Tôi nằm xuống nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Gần sáng, tôi chợt tỉnh giấc vì tiếng động cơ phành phạch của chiếc trực thăng. Tiếng loa từ trên máy bay vọng xuống nghe rõ mồn một:
- Hỡi cán binh Việt Cộng! Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi anh em hãy buôn súng, quay về chính nghĩa quốc gia, chúng tôi sẽ khoan hồng… Chúng tôi đã trông thấy các bạn…
Hiêng vồ súng lăn vào bụi. Một tràng đại liên đuổi theo. Thấy tôi giương súng , Hiêng hét lên:
- Nó chưa thấy anh, đừng bắn.
Đột nhiên, tôi thấy cô đứng lên vụt chạy ra bãi trống. Tôi gào khản cả giọng.
- Hiêng! Hiêng.
Và tôi nhào dậy chạy theo. Nhưng đã được ba bước tôi đã khuỵu xuống.
Chiếc trực thăng đảo một vòng đuổi theo Hiêng. Cô vừa chạy vừa bắn. Bọn giặc chừng như muốn bắt sống. Vì chỉ thấy chúng xả đạn cầm chừng.
Hiêng không chạy nữa. Khẩu súng trong tay cô rung lên. Một loạt đạn nổ như roi quất. Chiếc trực thăng khựng lại. Cùng lúc ấy một loạt đại liên vang lên chát chúa. Hiêng buông súng ngã vật giữa bãi cỏ.
Một sức mạnh vô hình thúc tôi vùng dậy. Từ khoảng cách năm trăm mét tôi xả hết băng AK vào kính chiếc trực thăng. Nó lảo đảo như người say rượu trong một thoáng rồi rú lên, chạy trốn. Nhưng nó không bay được xa. Vừa tới Thác Mơ nó rớt cái rầm xuống sông. Một cục lửa đỏ rực bốc lên.
Tôi chạy được mấy bước, té rồi vùng dậy,lại chạy. Cuối cùng tôi đến được bên Hiêng. Cô đã chết. Đôi mắt mở to thanh thản. Một bàn tay bấu chặt nắm cỏ non còn đẫm sương đêm. Cô chết không kịp một lời trối trăn vào đám cưới mà chúng tôi chuẩn bị tổ chức vào dịp Tết.
Tôi vuốt mắt cho Hiêng. Rồi tôi gạt nước mắt, khoác hai khẩu súng xốc xác Hiêng lên vai, cà nhắc tìm đường về cứ. Chân đau thốn vì mảnh đạn. Tôi nghiến răng đi như rùa bò.
Rồi tôi té sấp xuống. Không thể nào đứng dậy được nữa. Tôi đành phải để Hiêng nằm lại ở một cụm rừng nhỏ, dưới chân Thác Mơ, làm dấu rất kỹ lưỡng. Trước khi đi tôi còn hứa với Hiêng, nhưng thực ra là hứa với chính mình:- Hãy yên lòng nhắm mắt. Anh sẽ trở lại. Nhất định sẽ trở lại.
Vậy là bây giờ đã chín năm sau. Anh hỏi vì sao ư? Sau chiến tranh tôi chuyển về quân khu 7, rồi đi Campuchia. Tôi chuẩn bị giải ngũ sau khi suýt chết vì viên đạn bắn lén của một tên lính Pôn Pốt. Tôi không trở về Phan Rang vì ngoài ấy tôi chẳng còn ai thân thích. Tôi muốn sống mãi mãi với mảnh đất mà tôi và bao đồng đội đã đổ máu vì nó. Tôi muốn mãi mãi ở bên Hiêng như lời tôi đã hứa với cô.
Cường kết thúc câu chuyện ở đấy.
Trong bóng tối, tôi nhìn thấy anh cúi đầu, như một bức tượng tạc bằng đá, nổi bật trên cái nền trắng ngà của chiếc mùng tuyn. Lát sau, anh khẽ vươn vai, chui vào mùng. Nói vọng sang tôi:
- Chuyện vậy đó. Thôi ngủ đi anh. Ngủ đi một chút. Sáng mai tôi còn đi Đắc Ơ.
Tôi cũng chui vào mùng, đồng tình:
- Ừ, ngủ đi.
Nhưng tôi không ngủ được. Mắt tôi tỉnh như sáo. Trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh của Cường, của Hiêng và bao nhiêu người khác nữa – những người đến trước ở Thác Mơ.
Phía nhà tập thể Uỷ ban, tiếng gà đã eo óc gáy.
Tháng 10 – 1984