Tôi chậm rãi nhấm nháp ly cà phê trên chuyến tàu du lịch chạy dọc kênh Tào Hủ. Gió từ hướng bên Bạch Đằng lồng lộng thổi về. Không còn hơi hướng gì của một ngày nắng nóng 37,38 độ. Đường phố đã lên đèn từ bao giờ. Đại lộ võ ăn Kiệt- trước đây là đại lộ Đông Tây chạy dọc kênh nối dài từ quận 1 sang quận 8 rực rỡ trong ánh đèn cao áp giống như một thành phố của phương Tây. Không chỉ có tàu du lịch, con kênh Tào Hủ- Bến Nghé những ngày này tấp nập xuồng, ghe. Ghe chở hàng hoa kiểng, trái cây, đồ sành sứ từ miệt Bến Tre, Trà Vinh,Vĩnh Long, Long An lên; từ Bình Dương, Đồng Nai xuống theo ngả cầu số 2 hoặc từ ngả Bến Nghé lướt theo con nước vừa lên. Nhịp sống kênh Tàu Hủ trở lên sôi động mỗi ngày sau khi được nạo vết và cải tạo. Xuồng ghe vận tải, tàu buýt du lịch nhộn nhịp ngày đêm đã làm thay đổi diện mạo một con kênh, mới chỉ 10 năm trước vẫn còn là những vũng nước tù đọng, nhếch nhác, ô nhiễm và là nơi sống chui rúc của hàng triệu những phận đời cơ cực.
Theo những người dân đã từng bám vào con kênh này để mưu sinh, kênh Tàu Hủ là nỗi cay cực của những số phận tha hương và là một chương buồn trong đời sống của thành phố Sài Gòn hoa lệ. Khách thương hồ thường qua lại con kênh cho biết, dù mùa nước lớn hay nước ròng, chẳng ai dám thả chân xuống xuống dòng kênh nước đen vì có thể nhiễm trùng mất chân như bỡn. Những người am tường khu vực này còn cho biết , kênh Tàu Hủ trước đây chỉ có đường vào mà không có đường ra. Tuyến đường thủy rộng thênh từ Bến Nghé xuôi Khánh Hội rồi sang Tàu Hủ một thời bị tắc nghẽn do lưu dân lấn chiếm trái phép mặt kênh. Những khu nhà ổ chuột tràn ra vô tội bạ biến dòng chảy con kênh thành một vũng nước đọng lầy bùn và đầy rác rưởi. Hành trình của ghe thương hồ cũng “ Thục đạo nan”. Từ cầu số 2 đến bến Bình Đông chỉ khoảng 2 cây số mà ghe phải đi mất cả tiếng đồng hồ và cứ vài phút lại dừng vì rác quấn vào làm ngưng chân vịt. Con kênh đã từng một thời “Trên bến dưới thuyền” đã thành con kênh chết vì cuộc sống chụp giật của đô thành một thời nhất là những năm tháng chiến tranh
Tàu Hủ- Bến Nghé là một con kênh có lịch sử rất lâu đời, khỏang 200 năm có lẻ. Theo sử sách ghi lại, cuối 1772 , chúa Nguyễn Cửu Đàm cho đào kinh Ruột ngựa để lưu thông giữa Sài gòn và miền Tây Nam Bộ, khởi đầu cho số phân một con kênh. Năm 1819 vua Gia Long cho nạo vét và mở rộng kênh lấy tên là An Thông Hà, người dân còn gọi là Kinh mới. Đây là khu vực hoạt động tấp nập nhất của Chợ Lớn nên còn có tên là rạch Chợ lớn. Trong gần một thế kỷ, kênh Tàu Hủ thông với sông Sài Gòn, đón nước thủy triều lên xuống hàng ngày. Dòng kênh sạch sẽ, trong xanh, được nạo vét nhiều lần và mở rộng lần cuối vào năm 1922. Có chiều dài khoảng 6 km, con kênh chạy loanh quanh từ cẩu chữ Y tới kinh Ruột ngựa và rạch Lò Gốm. Cái tên Tàu Hủ cũng được nhiều người lý giải khác nhau. Theo học giả Trương Vĩnh Ký và học giả Huỳnh Tịnh Của thì đoạn phố đi ngang rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, cách người Triều Châu phát âm từ Thổ khố( khu nhà gạch), sau đọc trại đi là Tàu Hủ. Nhưng cũng còn cách giải thích khác. Theo những người sống ở đây lâu năm, tên Tàu Hủ phát sinh sau này, khi dòng kinh đang dần bị bồi lấp. Nhìn dòng kinh nước đen và những món phụ gia trôi nổi trên đó, nguời ta liên tưởng đến tương, chao, tàu hủ nên gọi như vậy. Nhưng dù giải thích gì đi nữa, kênh Tàu Hủ vẫn là nơi kết nối trên bến dười thuyền của đất Gia Định, Chợ Lớn thời bấy giờ. Đến nỗi, thi sỉ Tản Đà, đã từng mệnh danh đây là “ con đường vô hạn khách Đông- Tây”. Từ con kênh này, người ta chúng kiến bao nhiêu cuộc chung đụng của cư dân tứ xứ Bắc Trung Nam và các nước rời bỏ quê hương đến đây lập nghiệp. Không những thế, con đường dọc kênh Tàu Hủ, còn được mệnh danh là “ Đại lộ Tàu Hủ” trở thành con đường của lúa gạo, cây trái và gạch gốm của đất Sài Thành. Nó kết nối không chỉ Sài Gòn với miền châu thổ trù phú phương Nam mà còn là thương cảng nối liền Sài Gòn với các nước trên thế giới như Singapore, Mã Lai, Hương Cảng, Ma cao, Thượng Hải và một số nước châu Âu
Nhưng sự đời bãi biển hóa nương dâu. Từ những năm 50 của thế kỷ 20, kinh Tàu Hủ dần mất vai trò của một tuyến giao thông huyết mạch. Chiến tranh liên miên, cùng tình hình kinh tế khó khăn đã đẩy người dân tứ chiếng đổ xô về Sài Gòn để mưu sinh. Dân nhập cư tràn ra mặt kênh,dựng những khu nhà ổ chuột để cư ngụ và kiếm sống. Vấn nạn dân ngụ cư cùng sự buông lỏng quản lý của các cấp chính quyền đã bức tử kinh Tàu Hủ. Cùng chung số phận với dòng kinh, con đường từng tấp nập một thời được mệnh danh là đại lộ lúa gạo sầm uất,cũng trở thành nỗi ám ảnh của người dân. Những cây cầu sắt già nua, ọp ẹp và nạn kẹt xe triền miên đã gây khó khăn không ít cho cuộc sống bình thường của cư dân hai bờ kênh Tẻ. Con đường về trung tâm thành phố bỗng dài ra một cách đáng sợ .Gần nhà xa ngõ là vì thế. Nhiều cán bộ quận 8 hài hước kể lại rằng, mỗi khi có cuộc họp ở quận 1 hoặc quận 3, họ phải dậy từ 4,5 giờ sáng, đi bộ qua cầu Chà Và, có tài xế chờ sẵn bên cầu phía quận 5 mới mong đến kịp cuộc họp. Các tuyến đường khác như cầu chư Y cũng cũng trong tình trạng tương tự .
Từ những năm 1990 của thế kỷ trước, lãnh đạo thành phố đã rất bức xúc trước tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề trên kênh rạch ở thành phố Hồ Chí Minh và cuộc sống bức bách của hàng triệu cư dân lưu trú ở đây. Ý tưởng về dự án cải tạo môi trường thành phố Hồ Chí Minh hình thành nhằm đưa thành phố trở thành một đô thị kiểu mẫu về văn minh hiện đại. Nhưng dự án phải được Thủ tướng chính phủ chấp nhận và vấn đề không kém khó khăn là thu hút nguồn vốn từ đâu. Chính sách đúng đắn về thu hút ngoại lực được bạn bề thế giới ủng hộ.Chính phủ Nhật Bản đã đồng ý chấp nhận cung cấp nguồn vốn ODA. Năm 1999, báo cáo khả thi dự án môi trường nước thành phố Hồ Chí Minh, lưu vực kênh Tàu Hủ, kênh Bến Nghé, kênh Đôi và kênh Tẻ hoàn thành, mở đầu cho việc triển khai thi công công trình xây dựng có quy mô lớn nhất thành phố. Dự án kéo dài hơn 10 năm bao gồm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 từ 2001 đến 2008 có tổng số vốn đầu tư 4.164 tỷ đồng, vốn vay là của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản. Phần còn lại là vốn ứng đối trong nước. Giai đoạn 2 có tổng mức đầu tư 11.281 tỷ đồng bắt đầu từ 2008 và kết thúc hoàn hảo vào 2013.
Kết quả đã có thể cân đong đo đếm được. Không thể không nói đến những con số gây ấn tượng. Dự án góp phần cải thiện môi trường trên một lưu vực có diện tích 2.150,7 ha kéo dài từ 1,3,4,5,6, 8.10.11, Tân Bình và huyện Bình Chánh. Quan trọng hơn, 2.537 hộ dân đã thoát khỏi cuộc sống ổ chuột cơ cực nhờ hàng chục khu định cư khang trang ở các quận 4,7 và 8. Dự án cải tạo kênh Tàu Hủ- Bến Nghe Kênh Đôi và Kênh Tẻ góp phần tạo gương mặt mới cho cảnh quan đô thị thành phố Hồ Chí Minh, mở ra cơ hội mới cho du lịch thành phố: du lịch sông nước, một thế mạnh của thành phố và các tỉnh phương Nam. Bắt đầu là tuyến kênh Tàu Hủ Bến Nghé với tuyến buýt từ quận 6 về bến Bạch Đằng, mà hôm nay tôi đang ngồi nhấm nháp cà phê ở đây. Tương lai, từ bến Bạch Đằng , nơi trung tâm thành phố sẽ mở các tuyến buýt đi bình Quới-Thanh Đa. Rồi bến Bạch Đằng đi Bến Dược, Củ Chi. Tương lai sẽ là tuyến du lịch sông nước từ trung tâm quận 1 đến các chùa cổ ,các di tích văn hóa ở quận 5,quận 6. Xa hơn sẽ là tuyến du lịch qua kênh Tàu Hủ- Bến nghé đến vựa cây trái miền Tây Nam Bộ.
Sau tuyến kênh Bến Nghé- Tàu Hủ dự án kênh Tân Hóa Lò Gốm cũng đang ráo riết chạy đua với tiến độ, dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2014. Nắm ở phía Tây thành phố, kênh Tân Hóa- Lò Gốm cũng là một con kênh ô nhiễm nặng nề. Sau hàng chục năm bị bỏ quên, bị lấn chiếm trái phép con kênh thực chất chỉ còn là những rãnh nước ô nhiễm nghiêm trọng. Từ cầu Lò Gốm thuộc quận 6 chạy ngược lên thượng nguồn về phía quận Tân Bình,Tân Phú dòng kênh ngày càng hẹp lại, nước bốc mùi hôi thối rất khó chịu. Đến khu vực quận Tân Phú, dòng kênh chỉ còn là một rãnh nước đen. Sống chung với ô nhiễm đã trở thành số phận thường nhật của hàng vạn gia đình nghèo sống 2 bờ kênh và ngỡ sẽ gắn bó với họ suốt đời như một định mệnh.
Nhưng với quyết tâm của chính quyền thành phố, dự án cải tạo kênh Tân Hóa Lò Gốm đã được khởi công.Dự án nhằm cải tạo môi trường của dòng kênh, đương nhiên. Nhưng mục tiêu không chỉ có vậy. Dự án còn nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng các khu dân cư thu nhập thấp, cải thiện hệ thống cấp thoát nước, đầu tư làm mới một số con đường, nhựa hóa những ngõ hẻm lầy lội ở những nơi mà dòng kênh đã đi qua. Dự án trải dài trên 13 quận huyện thành phố sẽ làm thay đổi vận mệnh cả triệu con người. Khởi động từ cách đây 10 năm, giai đoạn 1 của dự án bắt đầu từ 2004, hoàn thành vào năm 2006 với hai hạng mục “ nâng cấp cơ sở hạ tầng trong các khu dân cư có thu nhập thấp khu vực Tân Hóa- Lò Gốm” và “ lập quỹ quay vòng vốn cho người dân có thu nhập thấp vay để nâng cấp nhà ở” với tổng số vốn 437 tỷ đồng. Giai đoạn 1 đã kết thúc tại quận 6, Tân Bình,Tân Phú và Bình Tân. Hàng trăm hẻm nhỏ lầy lội đã được nâng cấp. 22,802 hộ dân được đổi đời.
Giai đoạn 2 là giai đoạn quan trọng sẽ làm sống lại con kênh Tân hóa Lò Gốm. Khởi động vào năm 2007 và dự kiến kết thúc vào năm 2014, công trình dự kiến có tổng số vốn khoảng 1.800 tỷ đồng. Công việc chính sẽ là nạo vét cải tạo mở rộng dòng kênh, đắp bờ, xây tường ngăn lũ. Đặt 3 km cống hộp từ đường Âu Cơ( Tân Phú) đến cầu Hòa Bình( quận 11). Xây 10 cây cầu mới qua dòng kênh. Mở rộng gần 8 km đường ven kênh từ 6 mét lên 20 mét và làm mới 12 km đường. Hiện nay về cơ bản tuyến đường đã hoàn thành. 7,4 km kênh cải tạo sẽ được xây 2 bờ kè bằng bê tong. Khi hoàn thành, kênh Tân Hóa- Lò Gốm tăng khả năng thoát nước tại khu vực này của thành phố, giảm tình trạng ngập úng cho lưu vực của kênh với diện tích gần 19 km2 với gần 130.000 dân bị ảnh hưởng. Theo chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Quân, “ từ kinh nghiệm dự án kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, có thể thấy kênh Tân Hóa- Lò Gốm hoàn thành sẽ cải thiện chất lượng môi trường rất lớn cho người dân dọc 2 bờ kênh”
Vâng! Đó chính là ý nghĩa nhân văn của dự án. Nâng cao chất lượng môi trường cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Đó là con đường duy nhất đúng để xây dựng đô thị bền vững hiện đại và văn minh. Đó là lý do tôi đã chọn chuyến du lịch sông nước trên kênh Tàu hủ- Bến Nghé. Không phải là để tìm lại cảm giác trong những chuyến du lịch trên sông Hoàng Phố, trên sông Matxcova hay trên những kênh rạch chằng chịt ở Amxtecdam. Tôi chỉ muốn tìm lại chút hồn cốt chút sông nước miệt vườn của đất Gia định Bến Nghé xưa, thành quả của những chính sách phát triển đúng đắn của thành phố Hồ Chí Minh,như một chuyến du lịch về nguồn. Và, trên con tàu du lịch, đón ngọn gió mát rượi thổi về từ bến Bạch Đằng,nhấp nháp ly cà phê Trung Nguyên, nghe vị ngọt thấm vào đầu lưỡi, trong đầu tôi vang lên câu ca dao cũ
Nhà bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về