Kính tặng các thế hệ đã từng qua Trường Sơn
I
Trọng tập tễnh đi lại quanh khu trạm xá vắng hoe. Ở những trạm đầu tiên này chưa ai kịp sốt rét ốm đau nên trạm xá rất ít bệnh nhân. ngồi tán róc với nhau mãi cũng chán, đám y sĩ, y tá và nhân viên lại túa vào rừng kiếm rau ăn. Tất nhiên ở đây chủ yếu cũng là rau tàu may. Dẫu vậy còn hơn ngày này qua ngày khác chỉ độc có món thịt hộp, các hộp hay bột trứng rán. Mới Nghĩ đã ngán đến cổ. Chín mười bữa nay chưa bữa nào Trọng ăn ngon miệng.
Nhưng Trọng không thiết ăn uống gì, còn một lý do khác. Ai đời tập luyện năm sáu tháng trời, mang ba bốn chục cân, hành quân dã ngoại hàng mất chục cây số thì không sao, vậy mà mới bước chân vào cái trạm đầu cầu, anh đã rớt lại sau tiểu đoàn. Mà chỉ bởi một lý do lãng xẹt và hoàn toàn vô duyên. Anh bị trật chân vì rơi xuống một cái hầm cũ bỏ không lúc mới xuống xe rời Cự Nẫm đi được chưa bao xa. Đó là cái đêm pháo sáng đầy trời và tiếng máy bay gầm nhức óc. Mọi sự đối với anh bắt đầu không may mắn. người đại đội trưởng bây giờ hoá ra đại đội trưởng không quân.
Trọng bỗng trở nên cau có, đó là điều trái với bản tính của anh. Suốt ngày anh hành hạ cái chân bằng cách kéo lết nó hết nơi này đến nơi khác và đắp lên nó bằng đủ mọi thứ lá rừng mà tri thức y học ít ỏi của anh có được. Và một lần anh suýt thượng cẳng chân hạ cẳng tay với một tay y tá mặt bóng nhãy khi anh ta tỏ ý nghi ngờ cái chân đau của anh và chỉ ngược con đường mà anh đã đi. Ngày hôm sau anh vác ba lô trốn khỏi trạm xá mặc dù chân vẫn chưa hết tập tễnh.
Dường như thoát khỏi cảnh ăn không ngồi rồi và cái tâm lý bị đẩy ra ngoài cuộc, chân anh lành dần và đến trạm 10 thì khỏi hẳn. Nhưng anh đã mất đứt đi mười mấy ngày đường và bây giờ không còn hy vọng đuổi kịp đơn vị. Mặc dù vậy anh vẫn quyết định là từ hôm sau sẽ đi vượt trạm để rút ngắn thời gian. Tuy nhiên dự định ấy anh chỉ thực hiện được hai lần. Ở trạm 15, người ta giao cho anh làm trưởng đoàn một đoàn thu dung. Dù sao anh cũng là một đại độ trưởng một đơn vị bộ đội huấn luyện. Anh chưa hình dung ra đám lính thu dung này, nhưng anh nhận lời. Muốn gì thì gì có thêm người cũng có thêm sức mạnh và đỡ đơn độc hơn.
Ngay sáng hôm sau nhận cương vị lãnh đạo vị thu dung, anh sững người cứ ngỡ mình đang mơ ngủ. Trước mặt anh là bốn cô gái khuôn mặt non như khuân mặt những con búp bê vừa lấy ra trong tủ kính. Anh thở dài giấu vẻ thất vọng của mình. Dẫn đuợc “ đoàn quân tóc dài” này đến nơi đến chốn có phải đùa đâu. Anh nghi ngại đưa mắt nhìn những nếp áo thẳng căng của những bộ quân phục con mùi hồ đã được sửa lại một cách cầu kỳ, hằn dưới quai ba lô, ngang nhiên lồ lộ những chỗ mà điều lệnh quân đội không hề nói tới. Dưới những cánh mũ tai bèo loà xoà nhuững món tóc đủ các kiểu cách. Và, những ánh mắt thì cứ ánh lên vẻ giễu cợt đến tình nghịch khiến anh không giấu được vẻ lúng túng cái lúng túng khi đứng trước phái đẹp. Dẫu sao thì anh vẫn là chàng trai chưa vợ và bản tính vụng về.
Suốt dọc đường đến trạm sau, Trọng im lặng trừ khi phản căn dặn những điều cần thiết với những cô lính mới của mình. Anh muốn giữ gìn uy tín. Anh sợ nhất không phải chỗ họ không có kinh nghiệp. Cái điều đáng là sợ là anh hoàn toàn không có một chút tri thức nào về đàn bà. Anh lo sợ hoàn toàn có cơ sở, 28 tuổi đầu anh chỉ mới yêu một lần, yêu một chiều và cũng chỉ dám chiêm ngưỡng người mình yêu từ xa rất xa.
Khó mà quản lý các cô gái theo điều lệ quân đội mà Trọng đã học thuộc lòng từ lúc còn ở trường sĩ quan. Lãnh đạo cả một đại đội trước đây chỉ cần hô một tiếng là tất cả đại đội đã thức dậy, chăn màn đâu vào đấy. Đằng này thì anh thiếu điều lay võng gọi từng cô, rồi thì phải trờ các cô chải đầu chải tóc cả tiếng đồng hồ. Đến trạm nghỉ đặt ba lô xuống chưa mắc tăng mắc võng đã à nhau tìm chỗ tắm. Trời ơi sạch gì mà sạch quá thế, không biết giữa chốn rừng thiêng nước độc này mà đi mệt cứ nhào ngay xuống tắm thì mấy mà bị sốt rét quật chết tuơi. Có lần, khoôg nhịn được anh tuyên bố:
- Từ nay các cô đi tắm phải có lệnh của tôi!
Thế là các cô gái cười rộ lên. Nga, một cô gái to như hộ pháp, làm vẻ như lúng túng, rồi đột nhiên độp lại một câu khiến Trọng điếng người:
- Nhưng nếu bọn em bị hắc lào, hay ghẻ ruồi thì ai gãi cho bọn em.
Trọng cúi gằm xuống muốn độn thổ và để giấu cái mặt đỏ như gấc chín. Lát sau ngẩng lên, anh thở dài lầm bầm:
- Thôi được, tuỳ các cô, nhưng nhớ là nghỉ cho lại người rồi mới được tắm. Mỗi lần đi tắm ít nhất phải có hai người và mang vũ khí theo.Vùng này biệt kích như rươi. Các cô bị sốt rét hay bị đụng biệt kích là tôi không chịu trách nhiệm đâu.
- Thì thủ trưởng đi theo ủng họ cho chúng em – Nga vẫn chưa buông tha.
Trọng vội vàng quay đi như đụng phải tổ ông vò vẽ. Tiếng cười rúc rích của đám con gái bám theo anh. Anh chú ý đến Nga vì cô rất nghiêm, ít cười đùa, thỉnh thoảng mới nhếch miệng nhưng đã nói thì người khác phải dè chừng.
Trọng sống rất khó khăn với các cô gái. Chủ yếu không phải công việc mà la vấn đề quan hệ. Anh nói năng giữ gìn vì sợ cái thói chanh chua của mấy cô. Cái đó cũng là một phần. Phần kia anh không thể quen được với lối sông gán ghép bỡn cợt của các cô gái. Thành thử bữa ăn anh cứ cúi gằm xuống gô cơm. Nhưng rồi anh lấy lại sự bình thản khi các cô gái gọi anh là “ bố chồng”. Tuy không muốn nhưng anh thấy như vậy tiện hơn. Trong thâm tâm, tốt nhất là được họ gạt mình ra khỏi cái chuyện trai gái. Anh nghĩ vậy.
Tuy xác định như thế, nhưng anh không tránh khỏi những phút lúng túng, khiến anh đi đau trong khu vực đóng quân của đội, cũng phải đằng hắng như một người lao phổi và luôn luôn thận trọng như người bước trên bãi mìn. Cái đêm đi lạc, đến bây giờ nghĩ lại còn toát mồ hôi. Anh không hiểu sao khi đi xuống trạm về, đã căn đúng hướng, vậy mà vẫn đi lạc đến mái tăng của Hồng, cô gái trẻ nhất đội. Anh bật đèn pin và suýt chết lặng đi. Trong võng cô gái đang ngủ say. Mớ tóc loăn xoăn xoà trên khuôn mặt như khuôn mặt đức mẹ. Mấy khuy áo ngực bật tung để lộ bộ ngực trắng nõn đang phập phồng. Trọng tắt phụt đèn và quay ngoắt như bị ma đuổi đến nỗi anh lao cả đầu vào một gốc cây ngã dúi dụi đến bươu đầu sứt trán. Trời ơi giá mà anh không bật đèn…
Những lúc hành quân quan hệ giữa anh và các chiến sĩ dễ chịu hơn. Tuy không hẳn là không có những điều làm anh bất mãn. Trừ Nga tương đối có sức khoẻ còn ba cô kia đều có vóc dáng rấy ẻo lả thành thị. Chả có cái dốc nào mà anh không ba lô trước ngực, ba lô sau lưng, leo lên leo xuống đến hai ba lần. Nhưng anh thật sự thấy mình chủ động, chỉ đôi lúc anh khó chịu với cô bé Hồng, cô y sĩ ít tuổi nhất đội. Khóc đấy rồi cười đấy. Lúc nào cũng tí táu tí mẻ như trẻ con. Gặp một con vắt dọc đường đi, cô ta dập chân bành bạch và khóc rống lên như bò bị cắt tiết. Cho đến lúc Trọng phải thò tay rứt con vắt bám trên bắp chân trắng xanh của cô. Cô mếu máo văng một câu mà trọng suýt bật cười:
– Trời ơi, biết nhiều vắt thế này thì ông cóc đi.
Cái trở ngại chính của anh là hoàn toàn không biết tế nhị. Các cô gái cần khuyên bảo ngọt ngào hơn ra lệnh. Mà anh thì chỉ biết ra lệnh thôi. Mẹ mất sơm, anh sống trong một gia đình với ông bố và bà mẹ mà mọi cách nói tình cảm đều được coi là một xa xỉ phẩm. Không khí căng thẳng triền miên trong nhà đã làm thui chột khả năng mềm dẻo ở anh. Bao năm quân ngũ càng củng cố thêm cái cứng cáp có thừa nhưng dường như cũng làm khô cứng thêm cái công thức của anh trong đời sống. Mọi sự đối với anh đơn giản như một cộng một là hai. Bây giờ anh thấy hình như không hẳn thế.
Nhưng làm thế nào để không xảy ra điều gì đáng tiếc trong phạm vi quản lý của anh. Các cô gái có phục tùng anh đâu. Trong quân đội đâu có thói cãi lại lệnh chỉ huy. Ở đây không thế. Trước đây mệnh lệnh là mệnh lệnh. Bây giơ thì anh lại phải nghĩ nát óc xem phải truyền đạt mệnh lệnh ấy bằng cách nào. Lúc nào thì cao giọng, lúc nào thì hạ giọng nhưng kết quả cũng chẳng là bao.
Phải nói là các cô gái khéo lo toan cho cuộc sống của mình. Điều này thì Trọng hài lòng. Chỉ ở một đêm mà các cô trang trí cho căn phòng của mình khá đầy đủ. Đôi lúc hứng chí còn treo trước cửa mấy giỏ lan. Còn bữa cơm thì khỏi nói. Nào nấm xào mộc nhĩ, canh rớn, canh môn, đủ cả. Nhưng nhiều bữa vì thế mà họ lang thang quá xa khu vực trú quân. Họ mà lạc hay gặp biệt kích thì anh tiêu đời. Vì thế anh nói:
- Tôi biểu dương các cô về bữa ăn. Nhưng tôi phê bình các cô về tội đi quá xa trong rừng. Ngày mai các cô chỉ được đi gần thôi.
- Nhưng đi gần thì làm gì có rau, người đi trước hái hết rồi. Mà không có rau thì làm sao ăn nổi cơm, háo lắm. Vả lại theo quan điểm của y học…
Trọng cắt ngang lời Hồng:
- Tôi biết cái kết luận y học của cô rồi. Nhưng đi xa nguy hiểm lắm.Các cô cứ ở nhà ngày mai tôi sẽ đi thay.
Nga nói không cần suy nghĩ:
- Nhưng có những việc thủ trưởng không thể làm thay được chúng em đâu.
Trọng nín thinh. Đành phải chào thua. Anh khẽ lắc đầu quay đi với những ý nghĩ không vui. Anh thuộc loại người chậm chạp không có tài ứng biến nhưng suy nghĩ chắc chắn. Học hết lớp 10 không chịu được không khí ngột ngạt ở gia đình, anh đầu đơn đi bộ đội. Rồi được đi học và trở thành sĩ quan. Anh để ý đến một cô gái ở quê và đôi lần về phép đến thăm. Khó mà hình dung được anh nhút nhát đến khổ sở thế nào khi yêu. Đó là một cô gái có cặp mắt đượm buồn, nền nã và mộc mạc, con một gia đình gia giáo. Anh yêu đến thẫn thờ. Nhưng càng yêu anh càng chỉ dám đứng xa để nhìn. Sự nhút nhát tai hại dẫn đến mối tình của anh đã vĩnh viễn trở thành câm lặng. Cô gái hàng xóm ấy không hề biết là được anh yêu. Hoặc giả có biết thì cungx đã hoài công chờ đợi ở anh một câu tỏ tình. Nhưng anh không đủ can đảm để buông ra câu nói tày trời đó. Kỳ nghỉ phép trước khi anh đi Nam cũng là lúc cô gai đi lấy chồng. Anh bần thần như người mất của thời gian. Được cái anh không thuộc loại người đa cảm nên vết thương cũng chóng lên da non. Anh hăm hở lên đường. Mặc dù cấp trên đã đặt vấn đề để anh đi đợt sau. Anh là con trai một.
II
Trong số tất cả các cô gái, Nga lớn tuổi hơn cả. Cô cũng là người từng trải hơn. Cô đã từng là vợ, được yêu, nếm đủ mọi đau khổ, sung sướng. Trước khi trở thành nhà báo, cô đã từng lăn lộn ở các công trường làm thợ hàn ở một xí nghiệp. Nga thẳng thắn và giản dị nhưng hơi tự nhiên, đôi lúc đến táo bạo và ngang tàng, giấu trong đó có cả một tâm hồn nồng nhiệt, một sức mạnh, một nghị lực tiềm tàng của tuổi trẻ. Xí nghiệp cô làm việc có 60 phụ nữ có chồng ra trận, và sau 20 trong số đó hy sinh. Cô và Vũ, chồng cô, chỉ mới quen nhau có ba tháng. Vũ về xí nghiệp trước cô ba năm. Anh là kỹ sư cơ khí. Cô trở về đây sau khi đã rời công trường cuối cùng. Họ cưới nhau không kịp chung sống. Bởi vì ngày sau đó Vũ ra mặt trận. Hai người ở với nhau với tư cách vợ chồng chưa đủ một ngày đêm. Hai năm sau cô đã trở thành goá phụ. Cô cắn nát cả đầu ngón tay. Từ đó trở đi cô buộc mình làm việc một cách thầm lặng. nghiệt ngã và chỉ cười có một lần: khi cô nhận được quyết định đi B.
Ở đơn vị huấn luyện cô nhận về tổ ba cô gái trẻ măng. Một y sĩ, một điện báo và một giáo viên. Cô tiếp nhận họ với một nụ cười khắc khổ. Cô không thể chịu được khi thấy đám con trai trong đoàn cứ xoay quanh các cô gái của cô như những vệ tinh. Những chuyện tào lao của họ làm cô bực mình. Căn nhà của họ đêm nào cũng chật cứng và sặc mùi thuốc lá khiến cô muốn ngột thở. Vì vậy, đêm nào cũng đúng 9 giờ cô tuyên bố:
– Đến giờ ngủ rồi, xin mời các cô lên giường còn các tướng thì về cho.
Khi một ai trong các cô có ý muốn tiễn bọn con trai là cô chặn ngay:
- Ai có chân đến thì họ có chân về. Còn cô nào muốn ở lại thì nói tôi báo cáo cho ở lại luôn.
Tất nhiên các cô đều phục tùng. Bởi vì cô nào cũng sợ ở lại. Nhưng khi lên giường rồi, Hương một cô gái trẻ nhưng khá điềm đạm và chín chắn bảo cô:
- Sao chị khắt khe thế!
Nga nói cộc lốc:
- Không khắt khe thì để chúng nó mang bụng rồi ai chịu.
- Làm gì đến nỗi thế, chúng nó cũng biết suy nghĩ chứ. Vả lại nếu người ta yêu thì sao? – Hương mỉm cười.
- Lúc này không phải lúc yêu – Nga lầu bầu.
Hương im lặng. Nga cũng không nói nữa. Yêu thì cô không trách. Nhưng lúc này có nên không. Vả lại con gái hay nhẹ dạ. Sảy chân một chút là tai hoạ khôn lường. Với Nga bây giơ là làm thế nào để đi đến nơi. Trước mắt là một chặng đường dài với bao nhiêu lo toan và trắc trở, bao nhiêu gian khổ và bom đạn. Liệu có đến được đích an toàn không?
Đã cuối tháng tư. Nhưng khí hậu vùng Tây Bắc này vẫn còn lạnh một cách khắc nghiệt. Đoàn xe khách đưa họ từ Hoà Bình về đáp xuống cửa ga Hàng Cỏ. Những đoàn con trai con gái trẻ măng xúng xính trong bộ quân phục màu cỏ úa, túa vào ga tràn lên đoàn tàu dài, chen chúc trên các bậc toan như những trồi cây non trước nắng xuân. Họ hát vang những bài hàng khúc. Từ đó, họ đi tàu thuỷ, đi xe đến cửa ngõ mặt trận, bắt đầu một cuộc trường chinh lịch sử. Nhưng cũng như Trọng, các cô không may mắn đã rớt lại sau. Hai ngày đầu đi suốt 11 tiếng, ba lô siết trên vai đau điếng, mắt cá chân sưng phồng lên, các cô bắt đầu chứng kiến những trận mưa rừng kỳ quặc, giống như một cô gái hay hờn dỗi, dễ cười và dễ khóc. Đang nắng chang chang, cả khu rừng xám lại và mưa đột ngột đổ xuống. Nhưng chưa kịp khoác lên mình tấm ni lông thì nắng đã hửng lên. Một ngày ít nhất cũng có năm trận mưa như thế. Ban đêm, không có kinh nghiệm, các cô mắc võng không biết làm cọc phụ nên mưa xuống nước cứ theo cây chảy qua dây dù mà tràn xuống võng. Chưa quen với nắng gió bất thường, chỉ mới qua bốn trạm, Hồng, cô y sĩ trong “tủ kính” ngã bệnh. Để cô lại thì không nỡ, nhưng đi thì thành gánh nặng cho cả đoàn. Mất hai người và thừa ra ba cái ba lô. Đoạn đường phía trước lại toàn lên thang, xuống thang. Nga quyết định ở lại cả tổ để chờ Hồng.
Chiến tranh với quy luật riêng của nó liên kết con người với nhau một cách kỳ lạ. Bên các cô gái, dần dà Nga thấy mình mềm lòng đi tựa như một khối băng tan ra. Cô bắt đầu cười đùa, thậm chí ca hát. Cái vỏ bọc xung quang cô đã bị phá vỡ. Cô trở lại một cô gái sôi nổi, và lấy lại được vẻ trẻ trung tươi tắn đã mất đi theo cái chết của người chồng. Bây giờ thì không chỉ các cô gái mà chính cô cũng có vệ tinh. Đôi lúc một vài anh bộ đội giao liên người dồng hương mời cô về trạm và khi cô trở lại thì cả nhóm lại rúc rích với những gói lương khô, có khi cả thịt hộp nữa. Có lần cô bắt gặp cái nhìn dò xét của Hương khiến cô nhột nhạt. Nhưng không sao, miễn là cô im lặng. Miễn là Trọng đừng biết. Nếu biết thì con người trong bụng toàn điều lệnh ấy sẽ có một bài học tâm lý ra trò.
Nhưng Trọng không hề biết.
**
*
Họ đã tụt lại sau từ bao giờ.
Vượt qua họ là những đoàn bộ đội trẻ măng kéo thành hàng dài không dứt. Mỗi lần như thế không khí ồn ã cả lên:
- Việt cộng nữ các cậu ơi!
- Dân chính hả?
- Quê đâu đấy? Trời ơi đông hương. Không nhận à. Dân đất cảng Hải Phòng đây.
Hồng bập môi. Nhìn lên chỉ thấy những chiếc ba lô lù lù nối nhau trên những cái lưng còng xuống. Suốt hai giờ chỉ có leo. Ngẩng mặt lên là dốc. Tất cả sức chịu đựng dồn xuống đôi chân. Tim đập muốn vỡ ngực và mồ hôi túa ra tràn vào khoé mắt, khóe môi, n chát. Đường trống không có cây che, trời nắng. Da dẻ Hồng sém đi, người lả ra. Đôi chân nặng như đeo cùm. Cô tập tễnh đi như bò. Trọng đã lên đến đỉnh dốc, quay xuống.
- Cô đưa ba lô tôi mang cho.
Hồng ngẩng lên. Trọng mới cắt cơn sốt, mặt hốc hác và xương xẩu. Cô liếc nhìn phía sau, Liên đang lảo đảo chống gậy bước lên, phờ phạc, cô cắn răng:
- Không!
Trọng túm quai ba lô:
- Thôi đừng kiểu cách nữa, đưa đây.
Hồng gạt tay anh ra:
- Anh mang cho Liên đi, em mang được.
Trọng quay lại. Liên đã mang cả ba lô ngồi xệp xuống phiến đá cạnh dốc nhắm mắt lại. Cô gần như nằm đè lên chiếc ba lô. Trọng bước vội tới:
- Liên!
Không thấy trả lời. Chỉ thất hai giọt nước mắt to tướng lăn trên gò má trắng bệch.
Đến đỉnh dốc, cả bọn nằm lăn ra cỏ. Trọng ra lệnh:
- Đừng có nằm. Lát nữa các cô không dậy nổi đâu.
Anh vươn vai. Người đau nhức. Anh ngạc nhiên nhìn bốn xung quanh. Những cánh rừng trập trùng vây lấy mỏm núi mà anh đang đứng. Những cánh đồng cỏ, những rặng núi mờ xa giấu mình trong màn sương. Gió lồng lộng, có tiếng cười rúc rích ở phía sau. Anh quay lại. Các cô gái có đã vẻ lại sức đang đứng chỉ trỏ. Hay chưa. Mới khóc lại cười đấy. Nhưng thôi. Cười được là khoẻ rồi. Trọng chợt chú ý nhìn chiếc ba lô của Liên.
- Cô Liên này!
- Gì anh?
- Cái ba lô của cô ấy mà.
- Sao kia ạ?
- Cái ba lô của cô sao còn to thế. Tôi đã nói cái gì không cần thì bỏ bớt đi. Mấy quấn sách mà cô hay đọc để lại cho các trạm. Họ cũng cần. Còn những thứ gì không cần thiết thì vất, vât tuốt!
- Em đã bỏ tất cả những thứ không cần rồi!
- Thôi được, nếu cô không nói thì tôi đành kiểm tra ba lô của cô. Tôi sẽ làm giúp cái việc mà cô không làm được.
Liên đỏ mặt:
- Nhưng mà…
- Không nhưng gì cả – Trọng kiên quyết – Tôi sẽ quay mặt đi. Nga và Hương đâu, các cô thử xem cô ấy chứa những thứ quỷ quái gì trong ba lô?
Nga và Hương miễn cưỡng bước lại. Các cô hơi khó chịu nhưng có lẽ anh ấy có lý. Biết làm thế nào được. Đường còn xa. Phải tiết kiệm sức lực đến mức tối đa.
Chiếc ba lô được mở ra. Cũng không có gì ngoài mấy bộ quần áo, đồ lót, một quấn sổ tay có dán ảnh. Nga lôi từ đáy ba lô ra hai gói to tướng có dễ đến năm sáu ký lô. Trọng rên rỉ:
- Trời ơi, vậy mà cô bảo là không có gì. Thế cái gì đây?
Liên e dè:
- Một cái là thư từ những người quen gửi vào chiến trường – gói nhỏ ấy. Còn gói kia là của mấy anh quay phim cùng chi.
- A, ốc không mang nổi mình ốc lại mang cọc cho sên. Tôi ra lệnh bỏ lại hết – Trọng ngẫm nghĩ – Thôi gói thư đưa đây tôi mang cho. Có lẽ cũng có ích cho người ở chiến trường đấy. Còn mấy hộp phim tôi sẽ làm biên bản gởi lại trạm.
Liên bậm môi:
- Nhưng các anh ấy nói chiến trường hiếm phim lắm.
- Hiếm phim không bằng hiếm người. Cái cần đến trước nhất là cô chứ không phải là phim.
Hương thận trọng:
- Hay là để em mang cho, anh Trọng.
Trọng gắt:
- Cô tưởng cô khoẻ hơn phải không. Lúc nào cũng lạch bạch như con vịt bầu ở đằng sau. Cô mà có con thì cô sẽ xéo chết con cho mà xem.
Nga tinh nghịch nháy mắt:
- Anh đưng lo. Nếu xéo chết thì nó sẽ đẻ ngay đứa khác cho anh. Thắt đáy lưng ong thế kia cơ mà.
Các cô gái cười phá lên. Hương đỏ mặt. Còn Trọng thì đứng chết trân như trời trồng. Lát sau, anh trấn tĩnh:
- Tôi thua các cô. Thôi được, Nga, cô đưa hai gói đó cho tôi.
Trọng nhét vào ba lô mình rồi đứng lên:
- Nào đi. Đường từ đây toàn xuống dốc thôi. Dưới chân dốc là trạm.
Liên xốc ba lô lên vai. Chẳng biết do được nghỉ ngơi hay do chiếc ba lô đã bớt ký mà cô thấy người nhẹ tọp hẳn đi. Cô liếc nhìn Trọng đang lầm lũi xuống dốc. Anh ấy sốt rét vừa cắt cơn là đi ngay. Vậy mà cái gì cũng vơ vào người. Đằng sau cái vỏ ngoài khô khan là một tâm hồn quý gaias Liên cúi xuống sửa quai dép cao su trên bàn chân rộp phồng và nghĩ đến cái gánh nặng mà cô choàng lên vai anh. Nếu không có anh ấy thì Liên sẽ đi như thế nào nhỉ?
Ban đầu Liên không ưa Trọng cũng như anh không ưa cô, mặc dù hai người có đôi nét giống nhau: xu hướng sống cô độc. Liên không thích hoà mình với các bạn. Cô ít tham gia vào những câu chuyện phiếm. Đêm ngủ co mắc võng nằm riêng ở một góc rừng. Trọng không thích. Nhưng anh cũng không cản trở. Cho đến cái đêm mà đột nhiên Liên rú lên như bị ma bắt. Xách súng chạy lại Trọng phát hiện ra dưới võng cô có tàn thuốc lá. Cô nói nhìn thấy một bóng người trên núi đi xuống đến đầu võng cô thì biến mất. Có lẽ do sợ mà cô tưởng tưởng tượng ra. Nhưng từ bữa đó Trọng không cho cô mắc võng xa đội hình của đoàn nữa.
* *
*
Vừa rít xong một hơi thuốc, chắp tay sau lưng đi bách bộ trong khoảng rừng thưa trước võng, Liên chợt thấy Nga xăm xăm bước tới. Liên giật mình ném vội điếu thuốc qua gốc cây. Nhìn bộ dạng Liên, Nga phì cười:
- Cậu ăn mặc trông giống như lính khố xanh ấy.
Liên vội nhìn lại mình và cũng phì cười theo. Hai chân cô xỏ hai bao gạo thay tất nai nịt gọn gàng. Muỗi bay như vãi trấu. Họ leo lên mỗi người nằm một đầu võng và dùng một cành cây để xua muỗi.
- Cậu vừa đi đâu về – Liên hỏi.
- Tìm con Hồng. Nó đang khóc tức tưởi ở bờ suối ấy.
- Sao thế?
- Chả sao cả, chỉ tại ông Trọng thôi. Chả là chưa được lệnh của trạm nó đã mắc tăng. Bố già gắt om lên. Con nhỏ tức quá, khóc.
- Anh ấy cáu là phải thôi. Máy bay mà phát hiện ra nó bắn chết cả nút. Hôm qua mình lỡ phơi mấy bộ đồ lót trắng ra ngoài bãi trống, để quên, anh ấy cũng làm cho một trận ra trò. Tất nhiên là cũng có thể không cần nói nặng lời như thế.
Nga nhìn Liên nghi ngờ:
- Cậu yêu ông ấy rồi phải không?
Liên đỏ mặt:
- Bậy nào. Bây giờ đâu phải lúc yêu.
Nga phá lên cười:
- Cậu nhắc lại nguyên xi lập luận của mình.
Nhưng lập luận ấy phá sản rồi. Mà này, ông ấy biết cậu hút thuốc lá đấy nhá. Ông ấy bảo hút thuốc không phải con gái đâu.
Liên sìu mặt, thở dài:
Nga cười sằng sặc:
- Thế là bắt được thóp cô nàng rồi, chịu chưa. Chịu thì mình im, không thì mình sẽ tuyên bố cho tất cả chúng nó biết!
Liên khẽ lắc đầu nhăn mặt:
- Đừng, Nga. Mình… sợ lắm!
Nga cười hiền lành:
- Nói đùa thôi, ngốc ạ. Đừng cuống lên thế, nhưng mình hỏi thật, sao cậu lại hút thuốc nhỉ? Sao thế?
Ư, sao cô lại hút thuốc nhỉ? Từ bao giờ? Có lẽ từ cái đêm khủng khiếp kia.
Cuộc đời cô bình lặng trôi qua cho đến trước lúc chuẩn bị lấy chồng.
Học xong lớp 10, cô đi học điện báo. Cô yêu một người con trai cùng quê. Một sĩ quan tên lửa. Thực ra cô có yêu hay không thì bây giờ cô cũng chưa trả lời được.
Bố cô và bố anh từ Nam Hà phiêu bạt lên đây vào những năm bốn mươi. Họ lớn lên và chơi với nhau từ còn cởi truồng tông ngổng cho đến hết phổ thông. Họ gắn bó với nhau trước hết là từ lời ước hẹn của hai ông bố.
Hai người xa nhau vào những năm đất nước có chiến tranh. Anh vào bộ đội còn cô đi học chuyên nghiệp. Họ dự định tổ chức lễ cưới vào cuối mùa hè năm cuối cùng, trước khi cô ra trường.
Nhưng môi trường sống mới mẻ đã dần dần xáo trộn những gì ẩn náu trong con người cô. Cô gặp một người con trai. Đó là nhứng ngày cô sống trong một cảm giác lạ lùng mà cô chưa hề thấy xốn xang với những dự cảm nóng bỏng rằng mình sẽ gặp một niềm hạnh phúc kỳ diệu. Nhưng cũng có lúc cô thấy lòng mình rối rắm và sầu muộn, đau khổ và sợ hãi không rồi cái gì sẽ đến. Cô mong muốn cháy bỏng những cuộc gặp gỡ, mong ngóng tiếng nói, thậm chí hơi thở của anh ta. Cô không hề có một ý nghĩ tội lỗi nhưng trái tim cô cứ luôn bất thần đập dộn lên hứa hẹn một điều gì đó nóng bỏng, mơ hồ. Cô đã đón nhận những cái hôn, khao khát như chưa từng được nhận nó bao giờ.
Trong khi đó ở nhà cô người ta vẫn chuẩn bị làm đám cưới.
Cô nghỉ hè như không có điều gì xảy ra
Buổi sáng người sĩ quan tên lửa vẫn chở cô đến phòng đăng ký kết hôn thú ở xã. Nhưng buổi trưa lúc nhà trai đến đón dâu thì nhà gái đang nhộn nhạo cả lên. Cô dâu biến mất.
Hai họ chờ rã người. Chú rể phóc lên xe cùng người nhà túa đi tìm nhưng tuyệt vọng không thấy tăm hơi câu dâu đâu. Có người nói thoáng thấy bóng cô trên chiếc xe khách ngược về Hà Nội. Lục trong buồng cô người ta tìm được một bức thư xin lỗi hai họ.
Nhưng trong cái đêm động trời ấy anh chàng Sở Khanh đã không đến chỗ hẹn đón cô. Cô ngồi ở bến xe để mặc nước mắt tuôn lã chã. Cô đọc đến chăm lần trong đêm cái thư có những dòng chữ của anh ta. Cô bực bội và căm giận. Căm giận anh ta và căm giận mình. Chỉ trong đêm ấy cô điên cuồng đốt hết một bao “Tam Đảo”.
Ba ngày sau, cô trở về nhà và nhận những trận mưa xỉ vả của cha mẹ, họ hàng. Nhưng cô lỳ ra. Cô không gặp người chồng chưa cưới của mình để nói lời cuối cùng. Anh đã lên đơn vị và sẵn sàng tha thứ cho sự bồng bột của cô. Nhưng cô không bao giờ được gặp lại anh. Anh đã hy sinh trong cuộc chiến đấu ở cầu Hàm Rồng mang theo chọn vẹn nỗi đau của một tình yêu bị sứt mẻ…
Liên giơ tay lên lau nước mắt.
- Thôi nào, sao lại thế. Cuộc đời vốn đơn giản đừng làm cho nó phức tạp thêm. Ai là không có những chuyện dại dột, tuổi trẻ mà. Những chuyện đã qua sẽ mãi mãi lui vào quá khứ, tương lai vẫn ở phía trước. Bây giờ chỉ có việc là đi đến nơi – Nga khích lệ – ngày nay cậu đi khá đấy chứ.
- Có lẽ thế. Có thể quen dần đi. Hình như có một lằn răng trong sức chịu đựng của con người. Vượt qua nó là sẽ vượt qua được tất cả. Mình tin là mình sẽ đến nơi.
III
Trọng thận tròn chống gậy bước theo những bậc lên xuống quá dài.Anh e ngại nhìn các cô gái đang dò dẫm đi xuống. Cơn mưa tuy ngắn ngủi nhưng cũng để đường mòn láng lên, trơn nhẫy. Bùn chui vào bàn chân khiến chân cứ muốn tụt ra khỏi dép. Không có điểm tựa nào ngoài cái gậy. Bỗng anh thấy Hương nhao đi. Anh dấn tới thì cô đã trượt chân ngồi bệt xuống như một động tác của một động viên thể thao. Nga quay lại nắm tay Hương. Còn Trọng thì nâng ba lô. Ba lô và quần áo của Hương bết đầy đất. Đằng trước tiếng Hồng léo nhéo:
- Tháo đạn đứng dậy!
Cái miệng Hương đang méo xệch vì đau bỗng phì cười. Nhìn xuống, dép đã tuột đâu mất một quai.
Đêm xuống từ lúc nào. Rừng đen đặc. Bám đuôi nhau mà đi. Chốc chốc lại có tiếng từ phía trước truyền xuống:
- Bước cao chân lên, gốc cây đấy.
- Bên phải có hố, cẩn thận.
- Trời ơi, ai bấm đèn pin muốn chết chùm cả nút hay sao.
- Không tôn trọng kỷ luật hả, phản động phải không.
Ra đến bờ sông thì trăng lưỡi liềm đã nhô lên. Những chiếc cầu phao chỉ bắc lên ban đêm đông nghẹt người. Dưới ánh trăng, thấp thoáng những gương mặt trẻ, súng đạn lỉnh kỉnh bên người, ba lô cóc chặt căng, đi như chạy.
9 giờ tối mới đến nơi. Trọng dẫn đội vào bãi trú quân.
– Hương, Liên, Nga, Hồng đủ cả chưa?
– Đủ!
– Có ai sao không?
– Không, chỉ có Hồng đâm vào bụi cây xước cả mặt.
– Trời ơi, nặng hay nhẹ?
– Nhẹ thôi, anh.
– Thôi, bây giờ chọn chỗ mắc tăng. Nhớ là không được bấm đèn pin. Cô Hồng xoa dầu vào vết xước đi.
Mò mẫm trong đêm. Nhưng cũng ổn cả. Mắc xong tăng và võng. Trọng hỏi:
- Ai còn khỏe một chút nào?
- Em – Nga trả lời.
- Vậy thì theo tôi vào trạm. Những người khác lên võng. Nhớ mắc màn đàng hoàng nghe không.
Trọng xách theo bao gạo, mấy cái hăng gô. Anh lấy 6 cái bi đông đưa cho Nga. Họ đi về hướng trạm.
Nửa giờ sau họ quay lại. Trọng xách mấy gô cháo. Còn Nga thì lủng lẳng quanh mình 6 bi đông nước. Nhưng loanh quanh mãi không tìm được đường về. Bộ đội mắc tăng đầy rừng. Đành phải luồn qua tăng, qua võng. Bộ đội la oai oái.
- Ầy, cẩn thận chứ, đứt dây võng của người ta còn gì. Đường xá không đi cứ nhè tăng người ta mà đi.
Trọng nổi cáu:
- Ai bảo các ông mắc võng giữa đường. Hết chỗ mắc rồi hay sao?
- Thôi đi bố, đi lạc thì nhậ đi lạc cho rồi. Đường xá đâu ở đây.
Có tiếng dây tăng đứt phựt. Trọng quay lại. Nga đã gã đánh rầm, mấy cái bi đông chạm nhau kêu rổn rảng. Nga mếu máo:
- Trời ơi. Sao tôi khổ thế này.
Trọng kéo Nga đứng lên, suýt xoa.
- Có sao không?
Bộ đội xung quanh thò đầu ra:
- Phụ nữ hả, khổ chưa, sao không ở nhà mà lại đi đây – Cũng cái giọng ấy đột nhiên văng tục – Tổ cha thằng Mỹ.
- Anh chàng có cái tăng bị đứt đứng dậy, nháng đèn pin:
- Xem nào, a, chưa sao. Còn xa ruột.
Anh nắm tay Nga dẫn ra ngoài đường.
Gần 10 giờ đêm mới về tới nơi. Trọng gọi các cô dậy san cháo ra các hăng gô. Cháo lõng bõng nước, nguội ngắt nhưng các cô húp ngon lành. Nga ôm gô cháo leo lên võng, chưa ngồi yên chỗ thì võng rới xuống đất. Gô cháo đổ tung toé. Nga tức quá khóc tu tu. Mọi người xô lại. Trọng soi đèn:
- Mắc võng thế này thì chết tôi rồi.
Hương kéo Nga dậy sẻ nửa gô cháo của mình. Trọng mắc lại võng. Rồi ai nấy về chỗ. Ăn xong Nga lấy bi đông nước h rửa chân. Bùn bết lên đầu gối. Nhưng nghĩ đến đoạn đường thiếu nước ngày mai, lại thôi. Cô lấy tất làm bằng bao gạo luồn chân vào và leo lên võng, buông màn. Lúc này cô mới thấy người đau ê ẩm như bị ai dần.
*
* *
Hương để cả quần áo nhảy ào xuống suối một cách khoái trá.
Vẫn biết là không tốt nhưng cô không cưỡng lại được lời mời hấp dẫn kia. Một tuần nay, mặc dù đã mưa nhưng vẫn hiếm nước. Họ phải xếp thành hàng dài dặc gạn từng bi đông trong các vũng nước đã thối khẳn vì xác lá, uống vào thấy lợm giọng.
Vậy mà bây giờ trước mắt Hương hiện ra một con suối trong veo, nước xanh có thể nhìn thấu tận đáy. Cô cứ ngỡ như trong chuyện cổ tích. Bỗng nhiên những hôi hám trọng người đột ngột bốc lên, ngột ngạt tưởng như có thể chết ngất đi được.
Tắm xong, cô chui vào bụi cây, vắt sạch quần áo cẩn thận mặc vào và đi ngược về phía đầu suối.
Một anh bộ đội trẻ măng hiện ra sau lùm cây.
Anh xắn quần quá gối để lộ bắp chân khẳng khiu. Da mặt bủng vì sốt rét. Chỉ còn có đôi mắt. Vai anh khoác khẩu AK và tay xách một xâu cá. Anh nhìn Hương chằm chằm và hỏi như đã quen từ khi nào:
- Xin chào cô bé, quê ở đâu đấy?
Hương mỉm cười nhìn những sợi lông măng lún phún trên mép anh bộ đội. Trời ơi cô bé. Trông mặt còn búng ra sữa thế kia. Nhưng cô không nói ý nghĩ đó.
- Còn anh?
- Nam Hà.
- Thế thì không phải đồng hương rồi. Chào anh.
Anh bộ đội gãi đầu:
- Tiếc nhỉ, chào cô:
Anh quay đi. Được dăm bước không hiểu nghĩ gì anh gọi giật giọng:
- Này cô gái ơi!
- Gì thế anh.
Anh chọn trong xâu một con cá to nhất, giúi vào tay Hương:
- Cầm lấy đi!
Hương cầm lấy con cá. Có một cái gì dâng lên khiến ngực cô nghẹt thở. Cô hỏi lạc cả giọng:
- Anh bắn à?
Anh bộ đội hạ giọng, nháy mắt:
- Bắn. Cấm đấy. Nhưng mà… thèm quá. Cả tháng nay có chạy qua hàng thịt hàng cá nào đâu. Cô cầm đi. Có thể sẽ thêm chút sức lực nào chăng.
Nói rồi, anh vụt quay đi đến nỗi Hương không kịp nói một lời cám ơn.
Ném con cá cho các bạn, cô leo lên võng. Đột nhiên cô thấy người gây gây lạnh, rồi thì ớn lạnh từng hồi. Thôi chết, sốt rồi. Hay là tại tắm , rét. Không, cái lạnh lạ lắm, lạnh từ trong ruột lạnh ra. Cô quấn cả vào mình cái áo bu dông. Rồi cả màn. Nhừng người vẫn rung lên bần bật. Cô thò cái đàu có bộ mặt đỏ au, gọi Hồng.
- Hồng ơi.
- Gì?
- Mình sốt rồi.
Hồng chạy lại đặt tay lên chán Hương, nóng như cục than. Cô lấy cặp nhiệt 39 độ. Cô tìm túi thuốc, lấy cho Hương mấy viên ký ninh. Rót nước, Hương lảo đảo ngồi lên. Mắt rấn rấn nước:
- Hồng ơi mình chết mất.
Hồng dịu dàng:
- Uống đi, sẽ khỏi thôi, lần sốt rét đầu tiên ai chẳng thế. Rồi sẽ quen,.
Hương bỏ nắm thuốc vào miệng, hớp một hớp nước. Đắng nghét. Một cảm giác buồn nôn dâng lên. Và cô nôn thật. Nôn khan. Nắm thuốc bắn tung toé ra đất. Hương nằm vật vã ra võng, nhìn chăn trối lên góc tăng. Một cảm giác bi quan, chán trường ập đến trong đầu như một cơn gió.
Từ bé Hương đã được chiều chuộng.
Cô sống trong một gia đình đầy hạnh phúc và tình thương yêu. Cô thừa hưởng vẻ đựp thuỳ mị và đằm thắm của bà mẹ và cái chín chắn đến cương quyết của người cha. Suốt cả đời làm nghề dậy học, gắn bó với đồng nghiệp và học trò, cha mẹ cô đã để lại cho cô một bài học mẫu mực về đạo đức và lối sống. Vì vậy, tuy chiều cô nhưng ông bà luôn quan tâm giáo dục cô một cách nghiêm khắc.
Hương vốn là một cô gái có năng khiếu về văn. Bạn bè khuyên cô thi vào tổng hợp. Cô cũng thích. Nhưng rồi cô đã chọn vào sư phạm, theo con đường của cha mẹ cô.
Lúc ấy anh trai cô đang theo học tại trường đại học nổi tiếng Lômôlôxốp – Liên Xô. Anh là học sinh giỏi lý của miền Bắc.
Cô có một cô bạn gái rất thân, học sinh miền Nam, gắn bó với nhau như bóng với hình suốt những năm dài đại học. Một phần do tình cảm ấy, cùng với cái không khí hào hứng lên đường trong những năm Tổ quốc có chiến tranh, cô đã đi đến quyết định cuối cùng.
Nhưng oái ăm thay cô lại nhận được quyết định ở trường.
Cô xin rút quyết định để đi B, trước không ít cặp mắt khát khao nhìn vào chỗ trống ấy và cả những dị nghị to nhỏ.
Cô kiên trì trình bày với phòng tổ chức. Nhưng nhận được câu trả lời cuối cùng: hoặc là nhận quyết định ở lại trường, hoặc là nhận một quyết định đến một tỉnh xa kèm theo một quyết định kỷ luật.
Cô đành nhận tạm quyết định nhưng chuyển hướng tấn công. Cô bám người bạn gái để chạy lên Ban tổ chức Trung ương. Suốt nửa tháng trời, cứ đi làm về đến cửa là người cán bộ ở ban tổ chức, người quen của bạn cô lại gặp cô ở đấy. Cô đạt được nguyện vọng nhờ kiên trì.
Nhưng còn cửa ải thứ hai. Cô là con gái út cũng là con gái độc nhất trong nhà.
Bố cô ngồi lặng đi, còn mẹ cô thì khóc, khi nghe cô trình bày. Bốn năm ngày không khí trong nhà trôi qua thật nặng nề. Nhưng cuối cùng mẹ cô đồng ý.
IV
Vừa bước chân đến phòng trực của trạm, Nga đã chú ý đến mộ người mặc áo bu dông màu cứt ngựa, quay lưng ra cửa. Mặc quần đen có vẻ là con gái nhưng đầu lại trọc lốc như đầu của một cậu con trai nghịch ngợm. Nga đang lưỡng lự không biết chào như thế nào thì người ấy quay lại kêu rú lên mừng rỡ:
- Chị Nga.
Nga ngỡ ngàng một phút:
- Trời ơi, Mai. Sao em lại cạo trọng đầu trọc lốc như đàu hoà thượng thế này. Chị cứ tưởng là con trai.
Mai thoáng buồn:
- Em có cạo đâu. Nó rụng hết đấy chứ – Nga hơi ân hận vì sự lỡ lời của mình. Nhưng mai đã lất lại được vẻ tự nhiên. Cô túm tay Nga:
- Chị ngồi xuống đây. Chị đi một mình hay đi với ai? Mấy đứa ở lại đã đến đây chưa?
- Đến cả rồi. Cả Hương, Hồng, Liên. Hương sốt rét ba bữa nay. Hôm nào cũng lên cơn nhưng sang ra lại cố lết đi. Nó sợ phải ở lại một mình.
Mắt Mai dấn nước:
- Ở lại một mình ai không sợ, hả chị. Đi đông người có khí thế hơn, tuy nhộn nhạo đấy. Những lúc cùng đi thì thét lác la hét nhau. Nhưng ở lại một mình mới cảm thấy hết nỗi cô đơn và đoạn đường phía trước bỗng xa một cách đáng sợ.
- Em bị sốt rét lâu chưa?
- Đúng đến đây em mới bị sốt đấy chứ. Em giấu đoàn, vẫn đi. Nhưng ngày sau dường như em không biết gì nữa. Em rút dép xách tay đi chân không, nói năng linh tinh. Có lẽ là triệu chứng của bệnh tâm thần. Khi thấy em cười ha hả và kêu lên- A đồng chí Nguyễn Hữu Thọ ra đón chúng ta kìa… thì các anh trong đoàn mới hoảng kinh và lập tức đưa em vào bệnh viện. Bây giờ nghĩ lại mới thấy thương các anh ấy. Bốn người phải khiêng em đi ngược lại đoạn đường mình đã đi mấy tiếng đồng hồ và cả 5,6 cái dốc. Sau đó trở lại theo đoàn để ngày mai hành quân tiếp. Em nằm trên lám cả tuần, miệng ăn đít ỉa. Rồi em cũng phục hồi dần nhưng em lại bị teo cơ và đầu rụng hết tóc. Rút cái gương tròn ra soi em bỗng lạnh người.Khuôn mặt bầu bĩnh, nước da trắng hồng mịn mát mà các chị vẫn gọi là trứng gà bóc đâu còn nữa. Trước mắt em là một bộ mặt gầy guộc, gò má nhô cao, cằm nhọn hoắt và nước da xanh mét tái nhọn phủ lên, trông như mặt một con khỉ. Em tuyệt vọng. Cả một tuần em chỉ có khóc. Khóc, khóc và khóc.
Mai im không nói tiếp. Còn Nga thì ngồi lặng đi. Lát sau Mai chuyển hướng câu chuyện:
- Chị có còn gặp ai trong đoàn mình ở phía sau không?
- Cũng có nghe nói người này người kia nằm ở đây đó nhưng không gặp. À, mà chị có gặp Lạng. Em nhớ không. Lạng y sĩ ở chi 5 ấy. Con nhỏ lúc nào cũng cầm cái quạt giấy như cô hàng xén và hay nói: “ Bây giờ mà đùng một cái bọn mình đang ở Hà Nội thì thích nhỉ” đó. Đúng rồi. Nó đấy. Chị gặp nó trên đường ra.
- Sao lại trên đường ra? – Mai ngạc nhiên.
- Nó xin ra – Giọng Nga trầm xuống. Nhưng được cái nó sòng phẳng. Nó xin ra và nó nói thẳng là nó không thể chịu đựng được nữa. Nó bảo nó bị bắt có thể nó sẽ đầu hàng. Người ta đồng ý cho nó ra, kể như thế cũng còn hơn những kẻ lươn lẹo cố tình thác bệnh để tìm cách chuồn. À, em ra đây lâu chưa?
- Em mới ra được ít ngày. Định đi cùng một chị ở đoàn đi trước mình. Chị ấy yếu nhưng vững vàng lắm. Suốt hai tháng trời chị ấy không vượt nổi trạm này. Cứ vừa ra viện đến đây thì lập tức phải cấp cứu và khiêng trở lại viện. Bữa chịa ấy đi em rất buồn. Hai người phụ nữ cùng đi sẽ hiểu và deec giúp đỡ nhau hơn.
Nga như chợt nhớ ra:
- Chị quên khuấy đi mất. Thành đâu? Đi trước rồi phải không?
Mai lắc đầu buồn buồn:
- Em cũng không biết, em nằm ở đây cả tháng rồi còn gì. Nhưng trước khi em vào viện thì anh ấy đi sau. Bị đuổi ra khỏi đoàn.
Nga cau mày:
- Sao thế.
- Tất cả là tại em. Em có cảm tình với anh ấy. Và anh ấy cũng vậy. Thỉnh thoảng bọn em có đi chơi với nhau. Một lần ông trưởng đoàn bắt gặp bọn em ngồi chơi ở bờ suối. Chẳng cần biết ất giáp gì ông ấy gọi em lên. Ông ấy bóng gió xa xôi những bài học luôn lý nhưng em không hiểu gì. Ông ấy nổi khùng lên, hỏi:
- Chiều tối qua cô đi đâu?
Bây giờ thì em hiểu ra, nhưng bực mình em nói ngang:
- Chú cần hỏi để làm gì ạ.
Ông ấy tái mặt đi:
- Tôi là trưởng đoàn tôi phải biết tất cả.
- Nếu chú cần biết thì xin thưa bọn cháu đi chơi.
- Đi chơi, cô làm như cô đang đi dạo chơi ở công viên Hà Nội không bằng. Mà nói chuyện gì cơ chứ?
- Con gái với con trai thì thiếu gì chuyện nói, hả chú. Nhưng đó là vấn đề tế nhị phụ nữ không nhất thiết phải nói ra.
- Nhưng đây là chiến tranh, chiến tranh không có con gái và con trai. Chiến tranh chỉ có người lính.
- Cháu nghĩ chẳng có gì mâu thuẫn cả. Người lính không phải là cái máy đánh nhau!
Ông ấy gầm lên:
- Tiểu tư sản. Mang cái thân còn chưa nổi bày đặt chuyện yêu đương. Nhưng thôi được, tôi sẽ cho cô biết thế nào là kỷ luật chiến trường.
Ông ấy giữ lời hứa. Sau đó là ba buổi kiểm điểm và ông ấy đuổi Thành ra khỏi đoàn. Nhưng trước khi đi Thành có nói với em cứ yên tâm. Anh ấy sẽ đi đến nơi.
Nga thở dài:
- Thế mà người ta đồn rầm đường dây. Nhưng không phải như em nói đâu. Họ đồn hai người đi lại với nhau, gãy cọc phụ cô gái bị rơi trúng một gốc cây phải đưa đi bệnh viện vì trấn thương cột sống. Ai biết được là họ đồn chuyện của em..
Im lặng một lúc, Mai đăm chiêu:
- Em cũng có nghe. Sao lại có người độc ác thế không biết. Nhưng cây ngay làm sao chết đứng được. Mà chị biết ai tung ra tin đó không?
Nga lắc đầu:
- Không.
- Hội đấy. Hội rất yêu em, nhưng…
Nga ngồi bần thần. Cái anh tràng quay phim điển trai và vui tính. Không lẽ lại là anh ta ư?
Khi cô gái vừa lột mũ, Trọng sững người. Anh thấy tim mình nhói lên. Nhưng các cô gái lại ào đến thích thú xoa lên cái đầu trọc của Mai. Hồng cười như nắc nẻ:
- Ê, đầu trọc long lóc bình vôi…
Nga cười hiền lành:
- “Này cười người chớ vội cười lâu. Cười người hôm trước hôm sau người cười”. Chưa qua khỏi vòng thì đừng có cong đuôi, em ạ.
- Không sao, nó rụng rồi nó lại mọc thôi, quy luật mà – Hồng triết lý – còn nếu nó không mọc thì giải phóng Sài Gòn xong mình sẽ vào thẩm mỹ viện sửa sắc đẹp, lo gì. Sẽ có ối món tóc giả mê hồn.
Trời đột ngột chuyển mưa. Rừng gào lên. Bốn phía đen kịt. Gió như muốn cuốn băng đi những mái tăng mỏng manh. Trọng khoác vải nhựa lọ mọ đi trong mưa. Anh dừng trước mái tăng của Liên.
- Sao lại mắc tăng dưới gốc cây to thế này. Cây đổ thì cô chạy đâu?
- Em quên.
- Chỉ cần cô quên hai lần thôi thì cô sẽ vĩnh viễn nằm lại dọc đường. Hôm qua đã có người chết vì cây đổ đó. Nhớ tỉnh táo nghe ngóng nếu, hễ thấy “rắc” là phải nhảy ngay. Nghe chưa.
Cơn lốc hùng hổ xoáy vào các ngọn cây. Mưa rơi như ném đá tưởng có thể rách toạc cái nóc tăng của Hồng. Hồng đang nằm thấy anh thì nhỏm dậy:
- Hương nó đỡ chưa?
- Đỡ rồi anh.
- Lúc nãy các cô lấy củi rồi chứ?
- Dạ, rồi.
Trọng lắng nghe tiếng gió rít từng cơn, lầu bầu:
- Trời ơi, mưa gió thế này làm sao mà nấu ăn đây.
May sao, chỉ lát sau gió ngớt. Nhưng trời vẫn còn mưa. Nga cuốn võng dẹp vào một bên, tuyên bố:
- Nấu cơm. Tất cả mang hăng gô lại đây.
Nga đóòn mấy cái cọc có trạc rồi treo hăng gô lên. Hồng đổ nước vo gạo. Xong họ xoay ra nhóm bếp. Mưa vẫn nặng hạt. Mặt đất quanh tăng sủi bọt, ẩm ướt. Nước hắt cả vào đám củi dành nấu cơm. Bật lửa nhàng lên chưa kịp châm thì gió thổi tắt phụt. Loay hoay mãi họ mới nhóm được bếp. Nhưng củi ướt không tuân theo sự điều khiển của họ… Khói cuộn lên thành cột. Trọng đang nằm võng, quay lại. Anh vụt ra ngoài mưa nhìn lên ngọn cây, kêu lên hoảng hốt.
- Tắt bếp ngay. Không chết hết cả bây giờ. Nga ụp cả nửa hăng gô nước vào cái bếp đang cháy lem nhem. Mặt tái đi. Trong khi đó thì Trọng lấy dao găm, chặt một cành cây và bám cây con cạnh tăng Nga, leo vội lên/ Anh vừa leo vừa rung cây vừa lấy cành lá khua liên hồi. Khói tan dần. Cũng may là mới có ít khói. Khi Trọng tụt xuống thì người đã ướt sũng nước. Các cô gái cúi đầu, vẻ biết lỗi. Trọng tính quát một thôi một hồi về cái tội sơ suất kia. Nhưng nhìn dáng điệu ấy của các cô bao bực bội trong anh biến đi đâu mất. Anh bước vào trong tăng. Hồng rút vội cho anh cái khăn mặt. Lau xong, anh chọn mấy cành củi khô nhất, nhóm lửa làm mẫu. Anh giơ mấy cành củi lên:
- Phải chọn những cành củi khô giòn như thế này, hiểu không?
Anh túm một cành củi, châm lửa. Đầu tiên anh nhóm lửa trên tay. Hồi lâu, chờ cho ngọn lửa rực lên anh mới để xuống bếp. Dưới đó anh đã lót mấy cây củi khô. Lửa bắt đầu cháy to. Anh gác củi lên trên bếp hong:
- Thế nào, các chiến sĩ – anh hỏi. Các cô gái nhìn nhau. Không có gói thật.
- Chỉ chút nữa là đất dưới bếp khô. Sẽ đơn giản thôi. Vấn đề là để cho bếp rộng, thoáng. Nhiều củi quá cháy không hết sẽ có khói.
Mưa tạnh dần. Lúc bấy giờ từ phía xa họ nghe thấy tiếng vè vè của chiếc L19.
Trời sầm tối họ mới nấu xong cơm. Trọng đứng dậy:
- Thôi, bây giờ chuẩn bị ăn cơm. Xong phải thu xếp đi ngủ ngay. Sáng mai tôi, Nga và Liên sẽ dậy cơm nước cho cả đoàn. Phải xong trước năm giờ sáng. Đoạn đường ngày mai xa và khá vất vả đấy.
*
* *
Mai khó nhọc cúi mình dứt mấy con vắt bám vào bắp chân. Vắt nhiều đến mức thấy hơi người là chúng bò lổm ngổm đầy đường, đầu ngổng lên ngọ nguậy như những dàn tên lửa. Mấy con vắt cắn rất êm đến mức phình to ra, tròn lẳn. Máu chảy đầm đìa trên làn da trắng xanh của Mai. Chiếc ba lô trên đôi vai gầy như gọng vó, trì xuống khiến đôi vai đau ê ẩm. Chốc chốc Mai lại phải khom mình, xốc lại ba lô để đôi vai lỏng ra tranh thủ được nghỉ nghơi. Con dốc thẳng đứng như bức tường tưởng có thể cắm thẳng lên trời. Thỉnh thoảng cô lại giật thót lên một cái vì những con mòng to bằng con ruồi đốt vào cổ hoặc vào lưng. Hai đầu gối cô lỏng lẻo hẳn ra.
Trời đổ một trận mưa rào, cái nóng lại càng nung người lên.
Xuống hết dốc là một vệt bom B52 địch mới ném cách đó một giờ. Một khoảng trống cháy chụi hiện ra. Những hố bom to và sâu há miệng toang hoác như muốn nuốt chửng cả bầu trời. Cây to đổ ngổn ngang lấp cả lối đi. Đất trơ ra từng bãi rộng. Trèo lên cây cối, gai góc và hố bom mà đi. Chiếc hai thân lừ lừ bay tren trời, xoi mói. Những lúc ấy, cả đoàn phải ngồi im trên bãi trống.
Một tiếng đồng hồ mới vượt hết bãi bom B52. Mặt mũi ai nấy nhọ nhem, nhớm nhúa.
Mai quăng bịch ba lô xuống đám lá mục ướt sũng bên bờ suối. Mồ hôi khiến quần áo dính chặt vào người. Cô ngồi bệt xuống đất, thở dốc và thầm nghĩ không hiểu do đâu mà mình đã vượt được đoạn đường đã qua.
Cô ngồi trên tảng đá lắng nghe tiếng xoà xạc của rừng. một cơn gió mồ côi hiếm hoi làm cô tỉnh người. Khó nhọc và kiên nhẫn cô vẫn nhích lên từng bước và tin rằng mình sẽ đi đến nơi. Cô không chỉ đi bằng chân mà đi bằng cả trí tuệ và nghị lực. Như trong những chuyện cổ tích cô tin ở kết thúc có hậu. Với thế hệ cô nghi ngờ ở thắng lợi cũng tội lỗi không kém sự phản bội. Tất nhiên cũng có lúc cô cảm thấy bi quan, giao động nhưng niềm tin vào những kết cục thuận chiều bào giờ cũng mạnh hơn.
Gia đình cô đông người, sống hoà thuận trong một căn nhà không rộng lắm ở phố hàng chuối Hà Nội. Ban ngày chỉ có một chiếc giường nhưng ban đêm giường được dựng lên chật cả lối đi. Trong một căn nhà như thế, chật chội và ra đụng vào chạm lý ra người ta phải sinh ra bẳn gắt, nhất là những ngày hè nóng bức. Nhưng ít ai thấy trong nhà cô có tiếng với nhau.
Tuổi thơ ấu của cô trôi qua trong cuộc sống đàm bạc và giản dị. Cho mãi đến khi học đại học cô vẫn mặc đồ thừa của các chị, sửa sang lại chút đỉnh cho vừa với khổ người. Thoảng hoặc vào những dịp tết nhất, mẹ cô sắm cho cô một bộ đồ mới. Nhưng cô kiên quyết không mặc. Cô nhường cho chị hoặc cho em, để rồi sau đó lại lãnh từ họ những đồ cũ thải ra, và không cảm thấy vương vấn gì. Cái say mê duy nhất của cô là sách và phim ảnh. Dường như tối ngày cô chúi mũi trong thư viện.
Năm cô vào đại học cũng là năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ vào hồi ác liệt. Cô nhập trường vẫn cứ cái áo bạc phếch và chiếc quần phíp treo lơ lửng đến mắt cá chân mà bạn bè nói đùa là quần chó táp bảy ngày không tới. Gia đình không đủ tiền chu cấp, cô phải lên rừng kiếm củi bán cho nhà bếp lấy tiền đóng tiền ăn. Vậy mà cô vẫn là một trong những sinh viên xuất sắc nhất lớp. Tết năm thứ nhất, không có tiền đi xe cô đã dám đi bộ từ Đa Phúc về Hà Nội trước con mắt kinh ngạc của cả nhà cô và của bạn bè.
Cô có rất nhiều bạn trai, chơi với nhau như bạn cùng giới. Hình như chưa bao giờ cô chú ý đến họ với tư cách một người đàn ông. Cô chỉ mới phát hiện ra điều đó mới đây, lúc tập trung đi B, khi cô gặp Thành. Tiếng sét ấy đã làm loé lên ngọn lửa ẩn sâu trong con người cô. Đó là lần mà bạn bè cô đã thì thầm chuyền tai nhau một khám phá bí mật:
- Bọn mày ơi, con Mai cũng biết nói thầm. Ngộ chưa.
Tuy nhiên tất cả câu chuyện cũng mới chỉ có thế.
Có tiếng ai quát làm Mai giật mình:
- Đứng lại.
Mai ngẩng lên, các cô gái đang ùa xuống bờ suối chợt đứng sững lại, ngạc nhiên.
Trọng cau mày ra lệnh:
- Không được tắm. Các cô muốn chết hay sao. Nghỉ 20 phút rồi đi. Chiều, đến trạm sẽ tắm. Bây giờ ai đói thì có thể ăn cơm.
Các cô gái xìu mặt, quay đi. Họ xách ba lô quây quần bên Mai. Các hăng gô cơm được mở ra. Cái công thức hai nóng một nguội lặp lại ngày này qua ngày khác. Sáng và tối cơm nóng, trưa cơm nguội. Không có thức ăn, ăn cơm nguội là một thứ cực hình. Trọng mở gô của mình. Còn hai con cá con ngày hôm qua anh câu mấy tiếng đồng hồ định để tối băm ra nấu canh cho cả đoàn. Nghĩ sao anh gắp hai con cá bỏ vào gô của Mai và Hương. Hai cô gái vùng vằng, không chịu:
- Không đâu, anh.
- Ăn đi, đừng lôi thôi – Trọng ra lệnh.
Nga cười:
- Thôi ăn đi, hai đứa yếu nhất đoàn còn gì. Vả lại có hai con cá bẻ ra mất vệ sinh lắm. Chịu khó một chút vào đến nơi mình cho ăn một bữa gà luộc xé phay theo kiểu Nam bộ, chết luôn.
- Ối, thịt gà xé phay ăn làm gì. Giải phóng xong mình phải vào một cao lâu sang nhất Sài Gòn ăn gà tiềm, yến xào, vi cá mới đáng mặt chứ.
Các cô gái cười ầm lên. Trọng quay đi. Anh chợt thấy miếng cơm nghẹ ứ ở cổ.
Anh ngồi thần ra một lúc:
- Thôi ăn đi chứ, ăn rồi còn đi. Hương, sao cô cứ ngồi khua nắp hăng gô thế. Cô gầy như một bộ xương cách trí thế kia kìa.
- Có phai em không muốn ăn đâu. Nhưng ăn không được. Miệng nhạt thếch mà cơm thì khô quá, nhai như nhai rơm.
Trọng bất giác nhìn gô cơm. Bây giờ anh mới thấy mùi gạo hôi xộc lên mũi. Từng hạt cơm rã rời. Nắp nước mắm gạo rang trong suốt. Gói ruốc thịt ít ỏi đã hết từ lâu. Chỉ còn mắm ruốc, với người sốt rét thì chỉ ngửi thấy mùi đã muốn ói, và ít muối riềng anh làm, mang theo.
Trọng nhìn bàn tay gầy guộc của Hương đưa muỗng cơm lên miệng và cố mỉm cười:
- Ráng lên các cô bé ơi. Nghe nói vài trạm nữa là người ta sẽ phát cho mỗi người nửa ký đường. Sẽ có đại tiệc nhé.
Các cô gái reo ầm lên. Còn Trọng tuy nói vậy nhưng anh không hy vọng chút nào. Đầu óc anh mải suy nghĩ về một phía khác. Anh có súng đạn, tại sao không thử đi săn? Chỉ một lần thôi, mặc xác cái lệnh cấm của các ông ấy. Sẽ có thịt cho các cô gái của anh. Cái ý nghĩ cám dỗ về một bữa cơm có thịt khiến nước miếng anh ứa ra. Anh cúi xuống nuốt đến ực, nuốt luôn cả miếng cơm mặn chát muối riềng đang mắc trong cổ họng.
V
Bạn bè vẫn gọi Trọng là ông cụ non. Anh già trước tuổi. Hình như, từ trẻ con, anh đốt cháy giai đoạn trở thành người đứng tuổi không qua giai đoạn thanh niên. Chính vì thế anh nhìn các cô gái như nhìn những người thuộc thế hệ khác. Đôi lúc anh khó chịu về cái tính đỏng đảnh, ngây thơ của họ. Nhưng sống với họ dần dần anh cũng lây cái hồn nhiên tựa như có một cái gì đó từ trong anh đang bật dậy sau bao nhiêu năm bị vùi lấp đi trong một cuộc sống khắc nghiệt và cằn cỗi. Đầu oc anh xuất hiện những tình cảm mới mẻ, khó hiểu, đến nỗi chính anh cũng phải ngạc nhiên.
Tuy nhiên cái đó không phải là chính. Cái chính là anh đã tìm thấy ở các cô gái một phần cuộc sống của anh. Vì vậy anh càng ngày càng quý họ như quý từng mảnh xương thịt của mình.
Họ được nghỉ ở trạm một ngày. Quên khuấy cả thời gian. Đêm qua nghe đài bộ đội thấy có chương trình sân khấu truyền thanh, Trọng mới biết hôm nay là ngày chủ nhật.
Thật ra nói ngày nghỉ cũng chỉ đúng nghĩa một phần nào thôi. Còn bao nhiêu việc phải lo. Phải đi lấy gạo. Một công việc nặng nhọc chẳng kém gì vượt qua một trạm.
Lấy gạo xong về, mặc cho các cô gái thu xếp, san sẻ, anh chọn một khúc suối trong, tắm. Việc đầu tiên của anh là giặt quần áo, vắt hết nước rồi phơi lên hòn đá giữa dòng suối. Sau đó anh chọn một chỗ nước sâu nhất tắm một trận thoả thích. Anh lặn xuống dòng xuối mát lạnh rồi ngoi lên. Không có xà phòng tắm nước da và đầu óc cứ rít rít, khó chịu. Tuy vậy so với một tuần rồi không được tắm thì bữa nay vẫn được lên thiên đàng. Sau đó anh cởi cả quần đùi, giặt phơi lên tảng đá, ngó quanh quất không có ai liền chui vào tọt vào một bụi cây ngồi, chờ.
Bốn mươi phút mà quần áo chưa khô. Anh miễn cưỡng xỏ chân vào bộ quần áo còn ẩm và quay về nhà. Vừa leo lên võng nhắm mắt lại anh đã thấy như mình đang tròng trành trôi trên con thuyền con. Dường như anh có nghe thấy tiếng gió reo rì rào và không kịp nhận ra là mình đã thiu thiu ngủ. Anh cảm thấy có một thứ ánh sáng xanh dịu đang mơn man tren da thịt mình. Anh đã từng bắt gặp nó trong một đôi mắt. Nhưng khi phát hiện ra đôi mắt ấy thì cái ánh sáng huyền diệu kia đã tắt đi nhường chỗ cho một cái nhìn buồn bã, u sầu. Anh thu hết can đảm nhưng không thể nói to được một lời. Oái ăm thay khi anh mở miệng ra thì đôi mắt kia đã biến mất. Anh giật mình choàng dậy.
Nga đứng cạnh võng anh, mỉm cười vẻ bối rối:
- Anh ngủ say quá, Bọn em sợ muỗi bàn nhau mắc màn cho anh. Nhưng… chúng nó…
Trọng thấy sống mũi mình cay cay:
- Cám ơn các cô. Tôi rất mệt. Nhưng tôi không ngủ nữa đâu. Ở rừng ngủ nhiều nguy hiểm lắm.
Trọng nhảy xuống võng, vươn vai.
Anh đi bách bộ quanh khu đóng quân. Từ xa anh thấy Liên đang ngồi chải đầu. Mái tóc cô dày mượt và óng ánh như những sợi nhung tung ra che kín cả lưng. Anh muốn quay đi chỗ khác nhưng chân không muốn bước. Cả người cô toả ra cái hương vị ngọt ngào, ấm cúng đến say người.
Trọng buột miệng:
- Đẹp quá.
Nhưng vừa nói xong anh bỗng thấy sợ đến lạnh cứng cả chân tay. Liên quay lại. Mặt cô dần đỏ lên. Mắt cô sáng rực. Khuôn mặt nghiêm nghị bỗng chàn đầy hạnh phúc. Toàn thân cô như có một làn sóng nóng bỏng ập đến. Cô đan hai bàn tay vào nhau và úp mặt vào đó.
Trọng không ngờ câu nói của anh lại gây một phản xạ mãnh liệt đến thế. Ở nơi rừng rú này cô đã quên những lời tán dương của đàn ông rồi chăng?
- Anh nói thật đấy chứ?
Anh gật đầu như một cái máy.
Cô gái giấu một nụ cười:
- Nhưng nếu nó rụng hết thì… Còn đẹp nữa không?
- Trời đất, cô tính sát hạch chính trị tôi hay sao?
Liên bối rối:
- Không, nhưng… em sợ.
- Đừng buồn cô bé ơi – chẳng hiểu trời xui đất khiến sao Trọng nảy ra một câu an ủi – Hồi tôi học ở trường sĩ quan nghe nói có một loại thuốc chống rụng tóc. Tóc rụng đến đâu bôi vào nó sẽ mọc lại mà lại còn đẹp hơn trước nữa kia. Nếu cô bị rụng tóc tôi sẽ tìm cho cô…
Liên ngồi im, anh ấy bịa ra như thế để làm gì, để làm gì kia chứ. Không cần thiết. Thực ra không cần thiết. Nhưng cô không nói ra ý nghĩ ấy:
- Nhưng em sẽ không dùng thuốc ấy đâu.
- Sao thế?
- Vì nếu nhỡ tay mà xoa lên người thì tai hoạ bao nhiêu. Bảo đảm trông thấy là anh sẽ chạy mất cho mà xem – cô phá lên cười – lúc ấy chỉ có nước ra rừng ở.
Trọng cũng cười những anh thấy ngượng, thậm chí anh đỏ mặt lên. Lát sau không hiểu nghĩ thế nào, anh lại hỏi:
- Nếu biết thế cô có đi không?
Liên khẽ nói:
- Anh hỏi lạ thật. Em còn biết thậm chí chấp nhận những điều tai hại hơn nữa chứ. Nhưng điều ấy có liên quan gì với nhau. Em là con gái. Mẹ em bảo “ cái răng cái tóc là…”
- Nhưng cô đâu chỉ có mái tóc. Ngốc thật. Còn bao nhiêu thứ quý hơn trong con người cô. Nếu tôi được chọn…
Trọng vột vàng ngưng bặt.
Mắt Liên sáng lên:
- Nếu anh được chọn thì sao?
- Thì tôi sẽ không chọn mái tóc…
Trời ơi anh lại nói ngốc nghếch quá rồi. Cô ấy sẽ nghĩ sao đây. Cũng may là Liên không buông ra một câu châm chọc. Cô kín đáo thở dài nhưng mặt lại lộ một nét cười.
Có trời mới hiểu được điều ấy là thế nào. Anh thường nghe nói: “ con gái thở dài…” nhưng quả thật anh chả biết ý nghĩa của nó ra sao.
* *
*
Suốt ba tiếng đồng hồ lội bì bõm trong nước Hồng rét run lên.
Buổi sáng nay họ đã đi qua một chặng đường khó tưởng tượng nổi: leo qua chặng đường cheo leo đầy dốc đá tai mèo và sau đó là những đoạn đường thang. Từ đỉnh núi, thang chạy qua những vùng triền đá chênh vênh mới nhìn xuống đã chóng cả mặt. Hồng phải bíu hai tay vào thang, hai đầu gối guỳ bệt vào những then ngang nhẫy bùn mà ba lô cứ muốn kéo người ngửa ra phía sau. Cứ thế cô nhắm mắt tụt xuống từng bậc. Da ốc cô cứ sởn lên, cho đến lúc dép chạm chân thang. Nghe nói đã có người sợ quá buông tay ra lập tức rơi xuống đáy vực lở chởm đá chết không kịp kêu một tiếng.
Vượt qua bốn cái thang lên xuống như thế, tim Hồng đập loạn xạ. Có lúc muốn xỉu đi. May mà đoạn đường đã hết.
Nghỉ mười phút họ lại tiếp tục đi. Giao liên không cho phép họ nghỉ lâu. Vì có một giao liên mà đường đi thì rắc rối. Ai rớt lại rất có khả năng bị lạc. Từ đây đến trạm sau gần như toàn là lội suối.
Trọng đi trước. Các cô gái đi phía sau. Mỗi người một cây gậy dò đường. Nước không sâu lắm. Thường là đến đầu gối. Nhưng thi thoảng bất chợt cũng có hố sâu đến ngang ngực.
Không khí ẩm ướt và ngột ngạt. Từng đoàn muỗi đói ào ra. Trọng không quay lại phía sau mà chỉ nghe tiếng thở anh cũng biết các cô gái đi đứng thế nào.
Hồng dồn trọng lượng toàn thân vào cây gậy mà vẫn khó nhọc lắm mới bước nổi chân. Chỉ nghe tiếng nước kêu oàm oạp. Chiếc quần đen mỏng dính bết vào chân vào đùi. Trọng quay lại. Anh nhìn cái quần dài lướt thướt của Hồng. Anh nhăn mặt:
- Sao cô không xắn quần lên cho gọn?
- Em sợ vắt cắn.
- Ở dưới nước làm sao có vắt cắn cô được?
- Thế còn đỉa, em sợ nó…
Trọng gắt:
- Ở đây không có đỉa, khổ lắm.
- Nhưng em không cúi xuống được. Phải bỏ ba lô nhưng có chỗ nào bỏ ba lô được đâu, toàn nước là nước.
Trọng nhìn quanh, các cô gái còn ở quá xa. Anh quả quyết:
- Để tôi xắn cho.
Hồng rụt chân lại:
- Kệ em, không sao đâu.
- Đừng có vùng vằng thế – Anh kiên quyết – Bước lại gần đây.
Xong anh ngẩng lên:
- Nào đi.
Họ lại tiếp tục đi. Trongj hỏi:
- Cô thấy dễ đi hơn không?
- Dã dễ.
Trọng thở dài:
- Phụ nữ phức tạp quá. Còn cánh đàn ông chúng tôi đơn giản lắm. Cô có biết những đoạn đường này chúng tôi đi như thế nào không?
Hồng tò mò:
- Thế nào ạ?
Trọng:
- Thì tất cả cởi quần áo mà đi, chẳng ướt át khó chịu gì cả. Lúc lên bờ lịa mặc vào nghiêm chỉnh như ai, khỏi tấn công giặt giũ. “ Cởi quần mà lội qua sông. Lội qua lội lại vẫn không ướt quần”. Ca dao nói thế đấy.
Hồng phì cười:
Họ dừng lại trước một tảng đá.
- Nghỉ đã – Trọng khoát tay.
Các cô gái lục tục kéo đến. Họ hạ ba lô và leo lên mô đá ngồi. Cô nào cô ấy ướt lướt thướt như chuột lột. Mồ hôi lẫn với nước suối nhỏ lên mô đá tong tong.
- Mệt không?
- Mệt. Bây giờ mới biết thế nào là lội nước, chân cứ như đeo đá ấy.
Liên khúc khích cười:
- Mình lạnh quá, nước ướt lên tận…
- Còn mình thì chẳng còn chỗ nào để ướt nữa – Nga vắt cái mũ mềm sũng mồ hôi phơi lên tảng đá tay hong hong mớ tóc xoăn rồi quay sang phía Trọng: – Thủ trưởng này, mình đi được bao nhiêu đoạn đường rồi nhỉ?
Trọng bần thần:
- Tôi cũng không biết nữa. Nhưng có lẽ không còn xa nữa đâu. Có thể còn một nửa hay một phần ba đường…
Hồng kêu lên:
- Còn những nửa đường kia à? Liệu có tới nơi được không?
Trọng bỗng thấy bàn tay ai bóp chặt lấy tim. Trong số họ cũng có thể có người không bao giờ tới đích. Có bao nhiêu người sẽ vĩnh viễn nằm lại dọc đường? Anh sẽ nằm lại ư. Điều đó không đáng kể. Vấn đề là các cô gái của anh đến nơi. Nhưng phải đánh tan cái ý nghĩ bi quan kia. Anh mỉm cười:
- Tất nhiên là sẽ đến chứ. Rồi ta phải về Sài Gòn nữa kia. Lúc ấy tôi sẽ bắt tổng thống và bộ trưởng quốc phòng ngụy đi chân không khiêng võng cho các cô đi khắp Sài Gòn. Để chúng hiểu thêm một phần vì sao chúng thất bại. Tất cả cùng cười. Chỉ có Hồng là không. Cô rút chiếc khăn mùi xoa lau mặt và kín đáo giấu một tiếng thở dài.
* *
*
So với tất cả các bạn thì Hồng thuộc lứa tuổi đàn em.
Cha cô là một nhà thơ có tiếng nổi như một ánh chớp ngay từ thời phong trào thơ mới. Và bây giờ cũng vẫn được hâm mộ. Nhưng tài đi liền với tật. Ông hết bàn đèn lại cô đầu. Cách mạng đã cứu ông. Ông theo kháng chiến, lên chiến khu Việt Bắc và chỉ xây dựng tổ ấm gia đình lúc tuổi đời không còn gì có thể gọi là trẻ trung, và kết quả là cha già con cọc. Đứa con thứ nhất là một đứa con trai èo uột, về hình thức có phần không giống cha. Ông là một ông già quắc thước, ở cái tuổi 60 vẫn còn làm nhiêu cô sinh viên mê mệt. Nhưng “ con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Anh tập tọc bước vào cái nghiệp văn chương ngay từ hồi còn học cấp ba mặc dù điểm tổng kết văn của anh từ lớp 8 đến lớp 10 chưa bao giờ quá điểm 4. Với sự bảo trợ của ông, anh được vào Trường đại học Tổng hợp. Oái ăm thay người ta lại phân công anh về Khoa Sử. Báo hại ông già lại phải lặn lội lên tận Thái Nguyên mới đưa anh về được Khoa Văn.
Người con trai ấy tiếp thu ở cha niềm say mê mãnh liệt, có phần hơi bệnh hoạn. Ngay từ lúc vào trường, anh đòi ban chủ nhiệm khoa phải dành cho anh một quy chế đặc biệt khác với tất cả các sinh viên trường. Chỗ nào anh cũng vỗ ngực khoe mình là con nhà thơ nọ, nhà thơ kia. Và, thay vì học cho tử tế thì suốt ngày anh đi đọc thơ. Có đêm anh bắt cả lớp tắt hết đèn để ngồi nghe anh đọc “ Đêm ma trơi”. Anh sống lập dị như một siêu nhân. Nhưng những cố gắng về hình thức ấy không giúp gì được cho anh. Anh hoàn toàn không tiếp thu gì được về trí tuệ siêu việt của người cha nổi tiếng. Kết quả suýt tý nữa anh thi rớt tốt nghiệp.
Khi anh ra trường là lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ đang rơi vào giai đoạn quyết liệt. Trong sự quan tâm chung của cả nước với miền đất phía Nam đang nóng bỏng đau thương có sự quan tâm về văn chương. Những tác phẩm từ miền Nam đưa ra được đón đọc một cách nồng nhiệt. Trong số những người viết mới nổi lên có một nhà thơ trẻ, vốn là bạn anh, đang theo học đại học sư phạm thì đi bộ đội, người chưa hề biết làm một bài thơ là như thế nào và cũng chưa một lần say mê thơ.
Sự nổi tiếng của người bạn làm anh phát cuồng lên. Anh thèm muốn một thứ ánh sáng vinh quang như thế. Sau nhiều đêm suy nghĩ anh quyết định đi theo con đường của bạn. May thay đó Hội nhà văn có chọn một khoá đào tạo văn nghệ cấp tốc cho miền Nam. Anh là người đầu tiên tình nguyện. Cha anh mừng cho sự lựa chọn của con trai. Hồng còn nhớ như in cái không khí của ngày hôm đó. Bên những ly bia sủi bọt mọi người đều chúc anh ra đi trở thành một Ép – tu – sen – kô hay Pau – tốp- xki gì đó của Việt Nam. Xúc động trước không khí chia tay nhuốm màu lãng mạn, người cha già của cô đã làm một bài thơ sau này đi vào lịch sử văn học.
Nhưng sự đời thật chớ trêu. Đúng vào lúc bài thơ đang làn truyền như một sự kiện văn học thì có một tin dữ bay ra. Anh cô bị bắt, không chịu nổi tra tấn đã chiêu hồi.
Cha cô bàng hoàng như người từ trên trời rớt xuống. Nhưng ông còn bán tín bán nghi. Chỉ đến khi ông nghe được con trai nhắn về cho ông trong tiết mục Nhịp cầu thân yêu mà ông nghe lén trên đài Sài Gòn thì ông mới tin đó là sự thật. Nhà thơ già không chịu được nổi cay độc của cuộc sống đã ngã bệnh.
Biến cố cũng làm co nữ sinh Hồng nhìn đời toàn màu hồng hoang mang. Lúc ấy cô đang học năm cuối cùng của trường y sĩ thành phố. Tin dữ chẳng hiểu bằng cách nào đã lan vào lớp học của cô. Người ta xì xào bàn tán. Nhưng cô buồn bực vì dư luận thì ít. Điều đau đớn nhất chính là sự vỡ đổ niềm tin trong tâm hồn cô. Sự đổ vỡ ấy đã phải trả giá. Cô trượt tốt nghiệp trong khi cô vốn là học sinh xuất sắc nhiều năm.
Mặc dù không được cha mẹ đồng ý, cô đã quyết định xin đi B. Cô muốn phần nào chuộc lại lỗi lầm của người anh trai phản bội. Thái độ quyết liệt của cô đã làm mềm lòng cha mẹ và những người có trách nhiệm. Tuy cô được xác định vào loại thiếu sức khoẻ. Cô có 36 ký.
Lúc ấy cô vừa tròn 20 tuổi.
Nhưng ngay từ đầu cuộc hành trình, sức khoẻ đã gây khó khăn cho cô. Chỉ mấy ngày sau khi bước vào Trường Sơn, cô ngã bệnh. Hậu quả kèm theo là sự ngừng lại của cả tổ để chờ cô. Sau đó cô gặp Trọng.
Trọng là một người không dễ mến. Nhất là đối với một cô gái Hà Nội chính gốc, được giáo dục khá tỉ mỉ vè sự lịch thiệp và tế nhị như cô. Trong bài hocj vỡ lòng về cách cư xử cha cô thường nói với cô câu này: “ Chẳng thanh cũng phải hoa nhài, chẳng lịch cũng thể con người thượng kinh”. Có lẽ bởi vậy cô không thể ưa được những người thô lỗ. Sự không ưa đôi khi cũng thể hiện tới mức cực đoan. Ác thay, lũ bạn tinh quái ở trường y sĩ biết tính cô nên đã ghép đôi cô với một anh tràng vừa cọc cằn vừa láu cá. Cô tức đến phát khóc. Đến nõi khi anh bạn cô đánh liều phát đi một bức thư thì lập tức nhận được một trận cuồng phong chắc chắn là nhớ đến già.
Trọng không gây nỗi ác cảm như thế nhưng Hồng không thích anh. Tính anh gia trưởng, nông dân và có phần hơi khô khan. Nhưng toàn bộ con người anh, càng ở lâu người ta càng thấy toả ra một sức hấp dẫn riêng, ở cái tính quyết đoán rất đàn ông, ở lòng rộng lượng và nhân hậu, cái cá tính không chỉ đảm bảo rất chắc chắn cho hạnh phúc gia đình mỗi người phụ nữ đều mong ước và còn thể hiện cả bản lĩnh là người chỉ huy, khiến Hồng nghĩ rằng bên anh Hồng sẽ đi đến nơi. Chỉ cần kiên nhẫn chịu đựng. nghệ thuật vĩ đại ấy cô đã học được ở mẹ cô trước những tính khí và sinh hoạt bất thường của người cha thi sĩ nửa mới nữa cũ của cô…
Bây giờ thì cô đang sốt.
Cơn sốt bất thần ấp đến làm cô run lên. Tự nhiên cô thấy có một cái gì đó bò lên cổ. Rồi cô nôn. Nôn ra mật xanh mật vàng. Những sợi rau lẫn cơm tung tóe tren nóc chiếc ba lô xẹp.
Các cô gái xúm lại bên Hồng. Nga đỡ cô dựa vào người mình. Hương rút khăn tay ra lau mặt cho cô. Mai lấy chiếc bi đông nước cho Hồng xúc miệng còn Liên thì lục túi lấy mấy viên ký ninh.
Trọng áp tay lên trán Hồng, nghe ngóng. Anh lặng im nhìn đôi mắt buồn bã của cô và cảm thấy nó đầy vẻ trách móc. Anh thở dài. Vậy là anh phải gánh chịu một người hết sức chiến đấu, một gánh nặng không chỉ cho cá nhân anh mà cho cả các cô gái của anh. Đường đến trạm sau ít nhất cũng còn hai tiếng đồng hồ. Làm sao khiêng cô ấy đây. Các cô gái có thể đảm trách nhiệm đó nhưng với điều kiện là trên đường bằng. Còn đường từ đây tới trạm toàn là suối. Họ đi một mình chưa hết khó khăn. Vả lại còn mấy cái ba lô…
Sau khi đặt Hồng nằm ngay ngắn trên tảng đá, Trọng vẫy các cô lại hội ý. Anh suýt ứa nước mắt khi nhìn Hồng nằm co ro trên tảng đá như con mèo con. Cô gái vốn đã bé người lúc này gần như chỉ còn một nhúm xách một tay không nặng. Không khí lặng hẳn đi. Nga bần thần hỏi:
- Bây giờ tính sao đây anh Trọng?
Trọng thăm dò:
- Phải khiêng cô ấy đi thôi. Nhưng tôi sợ đường suối thế này, khó khiêng lắm.
Hương đề nghị:
- Hay ta thử nhờ đồng chí giao liên xem.
Trọng lắc đầu:
- Không được. Sáng nay tôi thấy giao liên mang quá nằng rồi. Lại mang giúp thêm một ba lô cho đồng chí cán bộ trung cấp cao tuổi. Vả lại đồng chí ấy đã đi quá xa rồi.
Liên xuýt xoa:
- Tiếc là ta đi chậm quá. Nếu không thì có thể nhờ đơn vị bộ đội cùng đi ban sáng được.
Mai rụt rè:
Thôi thì bọn mình khiêng nó đi vậy. Hồng không nặng lắm đâu. Trông nó như con chuột nhắt thế kia.
- Cũng không còn cách nào khác thật. Bây giờ cô nào lục ba lô Hồng lấy cái võng ra. Tôi đi chặt cây làm cáng.
Chiếc cáng làm xong song Hồng nhất định không chịu nằm cho đến khi Trọng bất chấp sự phản đối, bế cô lên cáng. Nhưng Hồng cứ khóc rưng rức đòi nhảy xuống khiến Trọng phát cáu lên:
- Trời ơi, cô nín đi cho tôi nhờ. Cô đừng hành hạ thân xác và hành hạ mọi người làm gì. Nước mắt không làm cô bay được đến trạm sau đâu. Cô có muốn đi đến nơi đến chốn hay muốn nằm lại góc rừng này thì bảo?
Tiếng quát của Trọng làm Hồng nín khe. Nhưng quát xong Trọng lại thấy ân hận. Anh biết Hồng khóc không phải lo sợ cho bản thân mình mà lo cho cả đoàn. Cô khóc vì buồn bực và bất lực trước cái gánh nặng mà cô vừa quàng lên vai mọi người, mặc dù cô không có lỗi. Nhưng anh thấy mừng là Hồng đã nằm im. Chỉ còn cái võng khẽ rung lên. Tiếng nấc hay cơn lạnh Trọng không rõ nữa.
Trọng đứng ở đầu cáng phía trước. Phía sau là Mai. Chiếc ba lô của Hồng được ném lên cáng còn Trọng vẫn giữ nguyên chiếc ba lô ở sau lưng. Chiếc ba lô của Mai thì do Nga đảm nhiệm.
Vừa mang ba lô vừa khiêng cáng trọng đi đứng có vẻ khó khăn. Kể ra anh cũng có thể thoải mái hơn nếu không phải đi chậm lại sợ Mai ngã. Nhưng mặc dù đi chậm như vậy nhưng anh vẫn luôn thấy mình mất thăng bằng. Phía sau, tiếng thở năng nhọc của Mai cứ dần tăng lên.Người cô lúc nghiêng bên này lúc nghiêng bên kia như đi trên cao su, chốc chốc lại làm chiếc võng chao đi.
Mai vẫn nặng nhọc bước. Cô đi theo quán tính, theo sức kéo của Trọng thì đúng hơn. Mồ hôi cô vã ra đầm đìa khắp người. những giọt mồ hôi chảy vào miệng mằn mặn và nhỏ xuống mắt cay xè khiên mắt cô muốn mờ đi. Một cơn gió lạnh đến làm cô bủn rủn cả chân tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời,cô gái Hà Nội ấy biết thế nào là gánh nặng của đòn gánh đè siết trên vai mình và cảm nhận được cái vị mồ hôi một cách rõ dệt đến vậy. Và, cũng là lần đầu tiên cô hiểu bằng máu thịt thế nào là một công việc quá sức, giống như cả bầu trời đang đổ xập xuống đôi vai cô. Đôi chân cô từ từ sụp xuống như một vật làm bằng sáp.
Phía trước cảm thấy cái võng hơi chao đi, trọng thét lên:
- Nga, đỡ cáng.
Nga chỉ kịp chạy tới thì Mai đã lảo đảo đổ phịch xuống giữa dòng suối và cứ ngồi nguyên như thế cho đến khi Liên và Hương chạy đến đỡ cô dậy.
Trọng đành quyết định nghỉ.
Sau đó họ đổi ca.
Nga, cô gái còn khoẻ nhất đoàn cũng chỉ chịu đựng được hai mươi phút. Tiếp đó đến Liên và Hương. Nhưng đoạn đường đến trạm dường như chẳng thu ngắn được bao nhiêu.
Chưa bao giờ Trọng cảm thấy con đường dài một cách đáng sợ đến thế. Cũng chưa bao giờ anh thấy mình nhỏ bé và bất lực đến thế. Bất lực đến mức thấy đầu óc mình mụ đi.
Ngay từ nhỏ Trọng đã vốn có ý thức phản kháng rất mạnh.
Mẹ mất sớm, anh sống với ông bố nhu nhược và một bà dì ghẻ cay nghiệt. Do yêu con mình hơn con chồng bà luôn dành cho anh những công việc khó khăn.
Bố anh cho đó là chuyện đương nhiên phần vì sợ bà mẹ kế. Phần do cuộc sống đau khổ quá quen với cách đối sử khắc nghiệt giữa con người.
Cách đối sử bất công đó gây mầm cho ý thức phản kháng của Trọng. Nhưng đáng lẽ, phải dồn nó vào bà mẹ kế như nhiều người đã từng làm thì anh dồn cả vào công việc. Anh không bao giờ quy phục bất cứ một cái gì mà bà ta giao cho anh, chỉ để chứng minh anh hơn hẳn đứa con vô tích sự của bà. Bây giờ có lúc Trọng thấy dường như anh phải cám ơn những năm tháng đó.
Nhưng lúc này thì quả thực anh không biết quyết định thế nào. Nếu người trên cáng là con trai thì anh quả quyêế vứt cái cáng đi để cõng anh ta về trạm. Nhưng cô ấy là con gái. Điều ấy làm cho anh do dự.
Phía sau anh Hương bước như người say. Anh cảm giác điều được điều đó khi cảm giác cái võng đung đưa, và cây gỗ làm đòn siết trên vai đau điếng. Anh bước đi mà thấy mình như con bò đang lê bước kéo theo cả cỗ xe cọc cạch già nua. Thốt nhiên Trọng thấy vai mình nhẹ bỗng. Chưa kịp hiểu điều gì xảy ra thì anh đã nghe một cái dầm và tiếng “ô” thảng thốt của Hồng. Khi anh quay lại thì Hồng đã té sấp xuống dòng nước.
Trọng hoảng hốt chạy lại bế xốc Hồng lên một tảng đá gần đó. Anh nhanh chóng nâng Hồng dậy. Rồi quát các cô đang líu ríu vây quanh:
- Cô nào có dầu sao vàng đưa đây mau lên.
Trọng làm mấy công việc cần thiết để phòng Hồng bị cảm lạnh. Ruột gan anh rối bời. Đã thế Hương lại ngồi khóc tu tu. Trọng nhăn mặt:
- Trời ơi, lại khóc. Không biết nước mắt ở đâu ra mà lắm thế . Chiến trường chứ không phải là nhà trẻ đâu. Thôi bây giờ thế này. Tôi đi chỗ khác, các cô thay quần áo cho Hồng. Nhớ là xoa dầu thêm cho cô ấy. Khẩn trương lên. Không còn sởm sủa gì đâu.
Khi các cô gái thay đồ cho Hồng xong, Trọng quay lại. Anh đến bên Hồng, hỏi khẽ:
- Cô thấy thế nào?
- Em đỡ rồi. Anh để em đi thôi. Em đi một mình được.
Trọng sờ tay lên trán Hồng, lắc đầu:
- Không được. Cô chưa cắt cơn. Nguy hiểm lắm. Cô mà bị ác tính thì bọn tôi biết làm sao.
Anh quay sang Mai, Nga, Liên, Hương:
- Các cô dẹp cái cáng đi.
Nga ngạc nhiên:
- Còn Hồng thì sao?
Trọng đáp ngọn lỏn:
- Tôi sẽ cõng cô ấy. Như thế sẽ nhanh hơn.
Hồng giẫy nảy lên:
- Ối, sao lại thế. Không được đâu. Em là con gái…
Trọng nhăn mặt:
- Không được, không được. Vậy để các cô ấy quăng cô xuống suối một lần nữa mới được chắc?
- Không được đâu, để em tự đi, em sẽ…
- Tự đi. Hay là cô muốn đi sang thế giới bên kia.
- Em không muốn, nhưng… anh cõng em không được đâu.
- Không có gì là không được cả. Tôi ra lệnh, hiểu chưa. Ở đây tôi là chỉ huy. Nhiệm vụ của tôi là đưa các cô đi đến nơi đến chốn bằng bất cứ giá nào…
Khi các đồng chí giao liên đốt đuốc quay đi tìm đoàn thu dung dân chính của Trọng thì đã hơn 8 giờ tối. Họ ngạc nhiên nhận ra người đoàn trưởng trẻ tuổi khoác chiếc ba lô trước ngực còn trên lưng thì cõng một cô gái đang lên cơn sốt. Họ lập tức đưa cô gái vào trạm xá. Nhưng lúc người giao liên vừa bế cô gái trên lưng anh lên tay thì cũng là lúc Trọng gục xuống, trong tiếng kêu thoảng thốt của các cô gái mà anh nghe mơ hồ như vọng ra từ một thế giới xa xôi nào.
VI
Trước cửa ngôi nhà của Hương ở phố Lò Đúc có một cây sấu có tán lá rợp che mát cả một khoảng vỉa hè. Cây sấu có từ bao giờ, cô không biết. Chỉ biết ngay từ khi bé xíu cô đã ngồi hóng mắt chờ anh cô leo lên cây cà ném xuống cho những quả sấu non. Những quả xấu non ở cái tuổi ấu thơ sao mà ngon đến thế.
Anh cô nghịch ngợm, khác hẳn cái tính tình nền nã đằm thắm của cô, cái tính tình mà cô đã tiếp thu được ở cả cha lẫn mẹ . Cha cô thường than phiền về tính nết của anh bằng một cái câu muôn thuở: “ Cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Nhưng nếu để ý kỹ thì thấy những lời than phiền của ông có xen đôi chút tự hào. Bởi những trò nghịch ngợm của anh thường không đi đôi với thói hỗn láo và phẳng phất màu sắc trí tuệ.
Nhưng dù muốn dù không, những trò chơi ấy cũng gây thiệt hại khiến cái gia đình chỉ thu nhập khiêm tốn bằng đồng lương giáo viên như nhà cô liêu xiêu. Tất cả những thứ mà mẹ cô dành dụm mua được để sử dụng như đài, đồng hồ đều được con trai đem ra thử nghiệm và rốt cuộc chỉ còn la những đống hổ lốn. Để bù lại, anh học giỏi tự nhiên một cách khác thường. Vào năm lớp 10, anh giành giải nhất môn thi vật lý toàn miền Bắc và được qua Liên Xô học.
Hương thì ngược lại, mê văn hơn. Điểm văn của cô bao giờ cũng xếp vào loại cao nhất lớp. Nhưng khác với cha mình, một tú tài Pháp say mê thơ văn tiền chiến và thơ ca lãng mạn Pháp, cô yêu những nhà thơ trẻ chống Mỹ hơn. Và, không thể nói rằng, trong cái động cơ thúc đẩy cô đi B không có sự góp phần của các nhà thơ đó.
Bây giờ, những lúc rỗi rãi như thế này, cô vẫn đọc thơ. Nhưng cô thấy cuộc sống dường như không đơn giản như vậy. Nó dữ dội. khốc liệt hơn. Càng gần nó thì cô càng có cảm giác nhiều bài thơ mà cô đã từng đọc có vẻ giống như chiếc áo trẻ con khoác lên cơ thể một người khổng lồ. Chẳng hạn cái cuộc sống cô và các bạn vừa trải qua trên một đoạn đường Trường Sơn. Hương gấp tập thơ và đẩy thêm củi cho nồi cháo mau sôi. Hôm nay là ngày nghỉ và cũng là ngày đi lấy gạo. Hồng đã vào trạm còn cô thì trật chân sau cú té chiều qua. Rốt cuộc chỉ còn Nga, Mai, Liên phải đi lấy gạo cho cả năm người. Họ quyết định không gọi Trọng dậy vì hôm qua anh vừa trải qua một chặng đường đầy khó nhọc. “ Để cho anh nghỉ lấy sức” – Nga bảo thế.
Nhưng Nga và các bạn vừa đi được một lúc thì Trọng tỉnh dậy.
Dậy sớm, đã trở thành thói quen của anh ngay từ hồi còn ở nhà. Sáng tinh mơ vừa mới bảnh mắt ra, người mẹ ghẻ, với cái giọng chát chúa như bà la sát đã làm ồn cả xóm lên:
- Dậy, dậy, lũ thối thây. Giờ mà còn nằm ườn thây ườn xác cho quạ nó rỉa hả.
Nói cho công bằng mà không chỉ khắc nghiệt với mọi người mà còn khắc nghiệt với bản thân. Đêm nào bà cũng thức đến 11 giờ và sáng chưa 4 giờ đã dậy. Lúc gọi anh là lúc bà đã đi nhặt được một gánh phân trâu. Thói quen ấy càng củng cố thêm lúc anh ở quân ngũ, đến mức, vào những ngày nghỉ anh muốn ngủ nướng thêm cũng không sao ngủ được.
Trọng thu võng và bước ra khỏi tăng. Giấc ngủ sâu làm cho cơn mệt nhọc ngày hôm qua biến đâu mất. Nhưng anh chưa kịp tập thể dục thì chợt để ý đến khu bãi khách vắng hoe. Nhìn xung quanh chỉ thấy Hương đang ngồi chumj củi nấu cháo. Trọng bước lại:
- Các cô ấy đi đâu hết rồi, cô Hương?
Hương ngẩng lên:
- Dạ! Chúng nó đi lấy gạo hết rồi anh.
- Sao không gọi tôi dậy?
- Bọn em sợ anh còn mệt.
- Nhưng các cô mệt hơn tôi chứ. Vả lại tôi quen rồi. Chỉ cần ngủ một giấc là hết mệt ngay.
Hương mỉm cười:
- Nhưng đêm qua anh làm bọn em hết cả hồn. Nói dại, anh mà nằm xuống bọn em không biết ra sao. Ngay cả việc anh ngủ không chịu mắc màn cũng hông được đâu. Muỗi ở đây độc lắm.
Trọng cười xoà:
- Muỗi ở đâu mà chả độc. Nhưng da tôi ấy mà muỗi đụng vào là gẫy vòi ngay. Cô đừng lo. Hồi ở quê những đêm trời nóng nực tôi thường vác chiếu chạy rông khắp làng. Không có một hột gió, còn nước ao đến 9 giờ tối vẫn nóng muốn sôi lên. Rồi tôi vác chiếu lên đê. Cô biết đê chứ?
Hương gật đầu:
- Em có nghe.
Trọng nói tiếp:
- Chúng tôi nằm đó suốt đêm đến gần sáng mới về. Muỗi mòng nếu muốn thì chúng đốt chán chê đấy chứ. Nhưng tôi chưa hề biết mặt mũi viên thuốc thế nào. Bệnh tật nó chê tôi.
- Nhưng đây là rừng thiêng nước độc. Bố em bảo “ lử khử từ khử chẳng Đại Từ cũng Võ Nhai…”
- Đại Từ, Võ Nhai cũng chẳng thấm gì so với rừng Trường Sơn này đâu. Nhưng con người sẽ làm cho nó mất thiêng mất độc đi. Biết đâu sau chiến tranh người ta chẳng làm trên dọc con đường Trường Sơn này một con đường lớn. Lúc ấy tôi nhất định thuê một chiếc xe chở các cô đi du lịch. Tôi sẽ kẻ ngay chiếc xe một dòng chữ đỏ: “ Chúng tôi là người đã từng đi qua Trường Sơn”.
Hương cười:
- Hôm nay anh Trọng lãng mạn thật.
Trọng đỏ mặt, bối rối:
- Nhưng nếu lãng mạn làm cho người ta thêm sức mạnh thì lãng mạn cũng chẳng sao. Thôi bây giờ tôi đi ra kho gạo giúp các cô ấy. Cô chuẩn bị cơm nước nhé. À, mà còn gì ăn không nhỉ?
Hương xịu mặt:
- Không còn gì anh ạ. Gói ruốc thịt của em còn chút xíu hôm qua đã nấu cháo cho Hồng rồi. Chỉ còn muối riềng thôi. Anh Trọng này, em nghe nói ở đây người ta phát cho mỗi người nửa ký đường, phải không?
Trọng lắc đầu:
- Hôm trước thì có đấy nhưng cách đây hai ngày, kho đường bị B52 đánh tan tành. Một trái bom đìa đã bứng đi trọn vẹn cả cái kho.
Hương cảm thấy nước miếng ứa ra, cô xuýt xoa:
- Tiếc nhỉ. Nếu không thì em sẽ pha một hăng gô nước đường. Bây giờ mà được uống nước đường thì có khác gì được lên tiên.
Trọng thấy ngẹn ở cuống họng. Anh lặng im một lúc rồi quả quyết quay đi:
- Tôi không lên kho gạo nữa đâu. Các cô ấy về cô nói là tôi đi kiếm cái gì cải thiện nhé.
Nói rồi, anh về võng lấy khẩu AK và lững thững đi xuống bờ suối.
* *
*
Quê Trọng ở một vùng đất ven sông Kinh Thầy giàu màu sắc thiên nhiên. Màu sắc thiên nhiên ấy đôi lần anh được độc qua các bài thơ cảu một nhà thơ nổi tiếng đời Trần – Phạm Sư Mạnh, người cùng làng với anh. Nhưng những ngày sống ở quê chưa bao giờ anh thực sự để ý đến nó. Thiên nhiên chỉ thực sự được bước vào Trường Sơn.
Vốn quen sống ở nơi sông nước, anh ngạc nhiên trước màu sắc kỳ bí của rừng. Chẳng hạn như bây giờ anh đang đi giữa những hàng cây to mà anh không biết tên, có thân cây cắm thẳng lên trời như mũi giáo. Vỏ cây chi chít như hình lục lăng và như được phết lên một lớp phấn hồng làm cả khu rừng sáng rực lên trông đẹp như một khu rừng thần thoại. Sau khu rừng không tên đó, trước mắt anh hiện ra một khu rừng tre bạt ngàn, có bụi to hàng trăm cây. Hoàn toàn không giống những bụi tre gai ở quê anh. Cây tre sum xuê, thẳng đuột. Ánh nawnsg lọt qua vòm lá phủ lên rừng tre những bức màn vàng khiến cả cánh rừng như có hàng vạn ngọn điện đang toả sáng. Những bông hoa trắng như hoa sấu phủ dọc đường mòn. Phía trước là con suối trong vắt như thuỷ tinh…
Nhưng Trọng không còn lòng dạ nào để ngắm cảnh. Nếu không có chiến tranh, không có con đường phía trước và các cô gái thì lại khác. Còn bây giờ, anh đang chủ tâm tìm một vật gì khả dĩ để có thể cải thiện được. Con suối đẹp hoàn toàn không có bóng dáng một con cá cũng chẳng có bóng dáng một con chim. Quay về thì anh không nỡ. Anh nhớ đến cái nhìn đầy hi vọng của Hương. Anh quyết định cứ lần theo đường mòn. Nghe nói ở trạm này có một bản Lào.
Trọng đã gặp cái bản Lào đó thật. Một bản Lào xơ xác với những đứa trẻ con bủng beo và ở truồng tồng ngồng giống như một bản người thượng ở miền Bắc hồi chưa giải phóng. Những cụ già da sạm nắng, nhăn nheo. Trông họ thật lam lũ, khắc khổ. Trọng gặp một anh con trai Lào, may mắn biết nói tiếng Việt:
- Bộ đội Việt Nam à?
Trọng gật đầu.
Anh con trai Lào vỗ vỗ vào ngực:
- Tôi Pa Thét đây. Ghét Mỹ lắm.
Trọng cười cười:
- Tôi cũng vậy.
Anh con trai vỗ vai Trọng thân mật:
- Tôi thương Bác Hồ cũng như thương Xu Pha Nu Vông. Anh đi đâu đây?
- Tôi đi kiếm cái gì ăn.
Anh con trai Lào lắc đầu:
- Đồng bào nghèo lắm không có gì đổi đâu.
Trọng gật đầu:
- Tôi biết rồi. Tôi không đi đổi đâu. Nhưng các cô gái chỗ tôi sốt quá. họ thèm ăn…
Anh con trai nhíu mày:
- Bộ đội nữ a? Ứ.
- Ừ.
- Vậy thì theo tôi.
Anh con trai Lào bỏ mặc Trọng một mình và quay vào nhà thì thầm gì đó với một người lớn tuổi hơn một chút. Rồi Trọng nghe thấy tiếng gà kêu quang quác rộ lên. Lát sau, anh con trai Lào xách ra một con gà mái. Anh hạ giọng:
- Gà nhà tôi đấy. Nó đang đẻ, béo lắm.
Trọng xua tay:
- Tôi không lấy đâu.
Anh con trai dúi con gà vào tay anh:
- Đừng ngại. Tôi sẽ nuôi con khác. Tôi gửi tặng các cô bộ đội Việt Nam. Lấy sức để đi đánh Mỹ.
Trọng nhìn quanh mình thấy không có gì đáng giá. Anh cởi áo:
- Nhưng tôi không có cái gì đổi. Anh cho tôi gởi cái áo.
Anh con trai Lào lắc đầu lia lịa:
- Không tốt. Tôi không đổi mà. Mang về đi. Tôi giận đấy.
Rồi anh ngoắt đi.
Trọng bần thần xách con gà mái ra ngõ. Nhưng nghĩ sao anh quay lại. Anh con trai Lào và người lớn tuổi đã biến mất từ lúc nào. Trọng tần ngần dừng lại ở đầu bản một lúc lâu. Rồi anh quyết định cởi bộ quần áo đang mặc gấp cẩn thận mắc lên một cành cây và hấp tấp đi như chạy ra khỏi bản.
Các cô gái đang lúi húi bên nồi cháo, quay ra, ngạc nhiên:
- Anh Trọng về.
- A, có gà các cậu ơi.
- Nhưng sao anh ấy lại ăn mặc thế kia?
Trọng hổn hển đặt gà xuống đất. Các cô gái vây quanh anh. Hương mỉm cười:
- Anh đổi à?
- Ừ, mà không họ cho đấy.
- Ai cho hả anh?
- Một người Lào.
- Thế… quần áo của anh đâu?
Trọng đỏ mặt:
- Họ không lấy, nhưng tôi không nỡ. Tôi bỏ bộ quần áo lại. Họ nghèo quá.
- Nhưng anh lấy quần áo đâu mà mặc?
Trọng nháy mắt:
- Không lo. Tôi vẫn còn bộ nghiêm bộ nghỉ kia mà. Nào, các cô bắc nước làm gà đi rồi bỏ luôn vào nồi cháo. Nhớ là để cho cô Hồng một hăng gô.
Nhìn các cô gái vây quanh con gà, nét mặt hệt như nét mặt cuả những đứa trẻ được quà khi đón mẹ về chợ, Trọng thấy vui hẳn lên. Anh khoan thai bước về phía võng mình, trên miệng thoáng một nét cười mãn nguyện.
* *
*
Mấy bữa nay Hồng không ăn được một chút gì. Lúc nào cô cũng muốn ói. Ruột gan cứ lộn phèo lên. Những cơn rét thường nhật đang từng ngày bòn rút dần từng chút sức lực của cô. Người cô đã gầy lại càng tong teo đi một cách đáng sợ.
Nhưng rồi cô đã cắt sốt. Cô thấy thèm ăn, bắt đầu từ gô cháo gà mà các bạn cô mang vào. Đầu tiên cô thèm cháy. Mặc dù hồi còn ở nhà không bao giờ cô đụng đến món này. Anh cấp dưỡng trẻ ở trạm xá biết tính cô nên ngày nào cũng mang cho cô một tảng cháy vàng rộm, nóng hổi vừa lấy ở vạc cơm ra. Nhưng cái gì ăn rồi cũng chán. Lại trở về với cháo muối, cơm mắm gạo rang. Với cô bây giờ mỗi bữa ăn đã trở thành một cực hình. Đôi lúc cô cảm giác như khoảng cách giữa miệng và dạ dày trở nên một khoảng xa vô tận.
Nhưng cô vẫn phải ăn, phải sống và đi đến đích. Bây giờ nó thực sự là một cuộc chiến đấu. Cô buộc phải nhờ sự troj giúp của các món ăn tưởng tượng. Mấy miếng thịt gà mà các bạn dành cho cô, được xé mỏng như sợi chỉ, chỉ cần hắt hơn một chút là bay mất tiêu, mỗi sợi cõng ba hột muối cũng đã hết. Cô biết để dành cho cô một chút thịt ít ỏi đó, bạn bè cô chỉ còn ba cọng xương vất vào nồi cháo nấu nhừ ra nước.
Vậy mà cô vẫn phục hồi dần. Hình như trong con người có một sức chịu đựng nào đó vượt qua tất cả mọi sự tính toán cảu các nhà khoa học. Đấy là cuộc đấu tranh phù hợp với hoàn cảnh để sinh tồn. Với con người. cuộc đấu tranh ấy không thể thiếu sự đóng góp bằng ý chí, mà một nhà thơ nào đó khi nói về một con đường Trường Sơn đã viết hơi khoa trương là: “ Tôi đi bằng đầu, không đi bằng chân”. Có lẽ nhờ vậy mà cô, một nữ sinh Hà Nội mềm như cây liễu, tưởng chưa gió thổi đã bay, chưa từng đi bộ một cây số ra khỏi nhà đã đặt chân lên Trường Sơn và chắc chắn sẽ tới đích.
Ý nghĩ là mình sẽ đi tới đích làm Hồng vui lên. Đúng, nhất định cô phải đi tới đích. Cái khát khao cháy bỏng còn mang một nỗi niềm riêng. Cô phải trả món nợ của anh trai cô, để nhà thơ già, cha cô có thể ngẩng mặt nhìn mọi người trong những năm cuối của cuộc đời.
Tự nhiên, cô chợi nghĩ đến Hội, anh chàng quay phim cùng chi đang nằm ở trạm với cô. Cái thói háu danh láu cá vặt của anh ta sao mà giống anh cô đến thế. Chẳng hiểu sao, cứ nghe cái giọng ngọt như mía lùi của anh ta, cô lại nhớ đến những điều độc địa anh ta dành cho Mai và mấy quận phim anh ta gởi vào ba lô của Liên mà cảm thấy người nổi da gà.
* *
*
Hội đưa cái lon sữa lên miệng ung dung hút đến giọt sữa cuối cùng rồi ném cái hộp rỗng ra góc rừng. Cho đến bây giờ anh vẫn thầm khen là mình có một quyết định kịp thời, chính xác: dừng lại cho cả đoàn lớn vượt qua và đi lẻ một mình, sau khi đã gửi hết đồ đạc, phim ảnh cho các cô gái nhẹ dạ. Anh chỉ dữ lại cho mình một số đồ đạc cá nhân và chiếc máy ảnh pen tắc, làm cần câu cơm, theo cách nói của anh.
Cha mẹ anh là Việt kiều ở Tân Đảo về nước đã khá lâu. Nhưng của nả của ông vẫn còn đủ để gia đình anh sống vương giả đến cuối cuộc đời. Có lẽ vì thế, cộng với sự sinh nở hiếm hoi, anh con trai một Hội được cưng chiều như một cậu ấm.
Nền giáo dục ấy, tất nhiên đã dẫn đến một hậu quả. Cậu bé không coi ai ra gì và có xu hướng thống trị mọi người, kể cả cha mẹ mình. Cậu thích hát sô lô chứ không thích đồng ca. Ý của cậu là ý trời. Cậu muốn cái gì, dù ý nghĩ ấy có tai quái đến đâu, cha mẹ cậu cũng phải lập tức thoả mãn. Bằng không cậu sẽ đập đầu ăn vạ hay làm những việc đại loại như thế. Được đường chân lân đằng đầu, từ quen ăn hiếp mọi người trong gia đình cậu quay ra ăn hiếp bạn bè xung quanh.
Ngay từ năm 6,7 tuổi cậu đã nổi tiếng vì gây rối. Khiến cho cha mẹ cậu luôn điên đầu lên vì các vụ kiện tụng hàng ngày. Cậu đánh người này, chọc người kia. Khi người ta bảo cậu học thì cậu chơi và ngược lại. Khi buồn đái cậu đứng ngay ở cửa lớp đái. Một năm cậu đã chuyển qua ba lớp mà lớp nào cũng chỉ trụ được khoảng một tháng trời. Đến mức cha mẹ cậu phải chuyển cậu qua một trường khác.
Nhưng may mắn là cậu học lại thông minh. Và càng lớn thì những trò hỗn láo càng ít đi. Cậu thay đổi 1800 và trở thanh một người lịch thiệp một cách bất ngờ đến mức nhiều người phải ngạc nhiên. Những năm sau đó cậu liên tiếp là học sinh tiên tiến.
Chỉ có một điều không thay đổi và có khả năng ngày càng tăng lên, ấy là xu hướng thích hơn người khác, thích nổi tiếng.
Tất nhiên, ở đời ai mà không thích nổi tiếng. Nếu không có khát vọng con người chỉ là con số không. Nhưng vấn đề là nổi tiếng như thế nào. Hội thiếu hẳn cái đức tính kiên trì. Anh không thích những việc làm lặng lẽ. Anh ham những việc dễ dàng nổi danh và được nhiều người khâm phục hơn. Anh luôn sống khác với mọi người, ăn mặc cũng khác mọi người. Khi cái mốt trang phục của anh bị người khác học tập thì lập tức anh thay đổi. Cái ý nghĩ giống người khác luôn giày vò và làm khổ anh. Ở lớp anh là người khởi xướng ra cái chò trơi, quy phục xung quanh những bạn bè sùng bái mình như sùng bái một vĩ nhân. Có lẽ do cái động cơ đó, hơn là cái động cơ yêu nước, anh đã tình nguyện đi B sau khi anh tốt nghiệp Trường quay phim và đang chờ nhận công tác về Xưởng phim truyện Hà Nội.
Nhưng cuộc sống quả thật là nghiệt ngã. Anh đạt được nguyện vọng thì tính lãng mạn cũng chẳng còn. Chiến tranh không dung nạp những kiểu cách anh hùng cá nhân. Nó đòi hỏi tinh thần anh dũng. Bởi vì bản thân chiến tranh không phải một trò đùa. Nó cũng chẳng phải một phép màu làm con người ta vụt sáng chói lên. Nó cần sưn hy sinh, đôi khi thầm lặng và khắc nghiệt. Và Hội, sau cái hào hứng ban đầu, thấy chiến tranh chẳng có cái gì giống như anh nghĩ, đã bối rối và hoang mang.
Song, đối ngược với những ước mơ có phần lãng mạn, hành động của anh rất thực tế. Anh biết thay đổi để chiến tranh phù hợp với mình. Khi cảm thấy trong cái dòng người điệp trùng đó mình nhỏ bé hẳn đi, thì anh quyết định dừng lại. Giường như trong cái guồng máy khổng lồ không có chỗ nào cho con người cá nhân của anh. Anh không chịu được những khuôn thước kỷ luật, những quy định gò bó, công thức.
Quả là từ khi dứt ra khỏi đoàn lớn bằng một mẹo vặt, cuộc hành quân đối với anh có phần nhẹ nhàng và dễ chịu hơn. Nếu không có căn bệnh sốt rét quái ác thì có thể coi đây là một cuộc dạo mát giữa rừng. Với đức tính khôn khéo gia truyền, cộng với vũ khí lợi hại là chiếc máy ảnh, anh trở thành một nhân vật được coi trọng đặc biệt và có dệt thêm chút ít huyền thoại. Rồi trạm trước giới thiệu cho trạm sau, trạm sau truyền cho trạm sau nữa. Anh kiếm được một giấy phép đặc biệt tự do ra vào các trạm. Ở đâu anh cũng được đối xử vào một hạng thượng khách, đến mức khiến nhiều người phải phát ghen lên.
Chiếc máy ảnh đúng là một dụng cụ kiếm ăn có hiệu quả. Nhất là khi anh sáng suốt mang theo bên mình một ít giấy ảnh và thuốc rửa. Công bằng mà nói những bức ảnh của anh cũng chẳng ra làm sao. Nhưng ai lại đòi hỏi điều đó giữa nơi rừng xanh núi đỏ này. Khi mà có người lính đã hàng 10 năm chưa hề nhìn thấy mặt mình. Có người, do một sự trục trặc kỹ thuật, gia đình đã nhận tin báo tử. Vài dòng chữ và bức ảnh, cho dù xấu xí đến đâu cũng trở thành một liều thuốc bổ vô giá đối với vợ con…
Những người lính đã dành cho anh thứ họ có và cả những thứ họ không có. Người lính giao liên ở Trường Sơn đâu dư giả giàu có gì. Họ mang ba lô cho anh. Họ dành cho anh hộp sữa có khi dành dụm cả năm trời không dám đụng đến đề phòng lúc ốm đau. Họ chờ đợi anh như chờ đợi một phép màu.
Nhưng làm sao anh có thể đáp ứng hết cả nhưng mong mỏi của ngần ấy con người. Anh phân ra ai cần cho ảnh, ai không. Rồi đến một lúc, anh chẳng buồn lắp phim nữa, chỉ giơ máy lên bấm, khiến nhiều người nhẹ dạ cả tin đã hoài công mỏi mắt chờ một tấm ảnh.
Tuy được đối xử nồng hậu như thế, sốt rét cũng không tha nổi Hội. Và bây giờ thì anh nằm đây. Đấy là cái mùi vị cay đắng đầu tiên của chiến tranh mà anh phải nếm từ khi anh bước chân vào Trường Sơn. Sau những cơn sốt đầu tiên tưởng cuộc đời đã sụp xuống, anh thấy quen dần. Nhưng bây giờ thì anh hối tiếc là đã xin đi. Tìm cách quay lại không mấy khó khăn nhưng anh không dám. Cứ nhìn lại con đường đã đi là anh thấy rùng mình. Vả lại lúc ấy anh đã mất hẳn lợi thế. Anh không tin vào đôi chân mình. Mà quay về thì mất hết. Vậy là chì còn cách cắn răng mà đi. Không nên quay ngược cái guồng máy đang chuyển động kia. Giữ gìn sức khoẻ, vì vậy vẫn là thượng sách, là kế lâu dài.
Khác với mọi người, Hội có thể ở bệnh viện này lâu chừng nào anh muốn. Nhưng anh thấy buồn. Suốt ngày nằm ngó mặt lên chiếc tăng mãi cũng chán. Anh bắt đầu đi bách bộ xung quanh bệnh viện. Anh chú ý đến những cậu lính trẻ đầu trọc lốc, đầu gối to như cái bát, ruồi đậu lên mép cũng chẳng thèm xua, ngồi sưởi nắng trước lán tiêm. Anh kinh hoàng hình dung ra mình cũng ở trạng thái teo cơ như thế. Anh còn phát hiện ra hàng chục người nằm trên lán điểm. Trần truồng như nhộng, miệng ăn, đít ỉa, trong đó có vài người cùng chi đi trước anh. Tự nhiên anh thấy sợ chết, sợ một cách quay quaert, nhất là khi anh biết trong ngày hôm đó có ba người vừa được đưa xuống nhà xác. Mấy ngày sau anh nằm lỳ ở võng mình không dám đi đâu. Anh quyết định xin ra viện cùng một lúc với Hồng.
Nhưng Hội xin ra viện không hẳn vì sợc chết. Anh còn có một tính toán khác. Anh muốn cùng đi với đoàn thu dung của Trọng. Lý do căn bẳn là chiếc máy ảnh anh đã sơ ý làm rớt xuống nước lúc vượt qua sông Sê Công. Không ai muốn liều thân vì chiếc máy ảnh trong dòng nước lũ. Vả lại dừng lại giữa sông là thách thức với máy bay Mỹ một cách vô ích.
Mất chiếc mấy ảnh Hội giống như người cụt tay. Bây giờ là lúc anh phải tự đi bằng đôi chân của mình chứ không phải bằng đôi chân của người khác. Đấy là một thử thách khó khăn. Anh lại lọt thỏm giữa đám đông, không người tung hô, săn sóc, mà với anh thiếu cái đó là đã mất đi một phần lớn sức mạnh của mình. Lần đầu tiên, từ ngày đi Trường Sơn, anh có cảm giác mình cần đến đồng đội.
Ý nghĩ ấy đã đưa anh đến với ý nghĩ nhập vào đoàn thu dung của Trọng. Hội đã đề nghị với Trọng như vậy lúc anh và các cô gái đến đón Hồng ra viện. Không để ý đến vẻ không hài lòng của Hồng và Mai, Trọng chấp nhận. Đơn giản anh thấy thêm một người con trai thì có thêm sức mạnh. Người thanh niên lanh lợi và hoạt bát này chắc chắn sẽ giúp anh nhiều trong việc đỡ đần các cô gái.
VII
Con đường đến trạm 61 không ngắn như Nga tưởng.
Hình như, càng đi vào sâu, gương mặt chiến trường càng hiện ra đầy đủ và khắc nghiệt hơn. Suốt đêm máy bay lồng lộn, pháo súng nhì nhằng, tiếng bom rung đất. Đã thế sức khoẻ ngày càng vơi cạn đi. Tiêu chuẩn gạo hạ xuống chỉ còn ba lạng một ngày.
Trời thỉnh thoảng còn rơi rớt một cơn mưa. Những cơn gió lạnh, khô hệt như mùa đông bắc trong những ngày đầu đông, thổi lồng lộn qua những cánh rừng già. Khí trời hanh hao, se lạnh.
Nga cũng vừa dứt cơn sốt. Vậy là chiếc xe tăng của đoàn đã đổ rồi. Suốt cả đêm qua cô gần như không ngủ. Đầu nhức nhối. Hai mắt căng như muốn vỡ ra. Nằm nghe bài “ Người Hà Nội” của chương trình tiếng hát gửi về Nam, cô muốn ứa nước mắt. May mắn là gần sáng cô thiếp đi được một lúc và cơn sốt tạm lui.
Cô quyết định giấu mọi người, kể cả Trọng. Cô sợ phải ở lại một mình. Nhưng cơn sốt đêm mất ngủ làm cô bải hoải. Cái bải hoải ấy được cộng thêm cái bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của người đồng hương, làm y tá của trạm, tối qua còn đến thăm cô. Buổi sáng, 7 giờ thấy màn anh vẫn buông, người ta tưởng anh thức khuya nên dậy muộn. Nhưng khi có người vén màn lên thì anh đã chết cứng trên võng. Cả Trạm sửng sốt. Anh rất khoẻ, hơn một năm nay anh không hề ốm đau. Cái chết đến với anh dễ dàng quá khiến Nga lặng người. Lần đầu tiên cô cảm thấy sự nhỏ bé của số phận con người trước tự nhiên. Nỗi xót xa như một bàn tay có vuốt sắt cứ từ từ siết lấy tim cô.
Nga không phải là người mau nước mắt. Cuộc sống đã vắt kiệt nước mắt cô sau cái chết của chồng. Nhưng cô rã rời như có ai đó đang lạnh lùng tháo từng khớp xương mình ra. Đã thế cô lại muốn điên lên vì lũ ruồi vàng. Những con ruồi vàng có cánh và thân vàng tươi đốt vào lập tức rớm máu. Mấy ngày nay chân cô sờn lên những nốt đỏ, ngứa còn hơn ngứa ghẻ. Cô còn sợ hơn nữa khi người giao liên chìa cho cô một bàn tay mưng mủ vì bị ruồi vàng cắn. Bàn chân cô do leo dốc quá nhiều, nứt ra như chân người nông dân bị dầm sương muối nhiều ngày, chỉ cần lọt một hạt cát vào là đau nhói tận tim.
Song cái đáng sợ hơn nữa là cái đói. Sáng nay cả đoàn 7 người chỉ có một lon gạo nấu cháo. Ăn xong,Trọng bảo giá đừng ăn lại dễ chịu hơn. Hình như ăn một chút vào cái dạ dày thêm co bóp tợn và cái đói càng cựa quậy dữ. Vào sâu trong chiến trường gạo càng hiếm, vì vậy mà đói kinh niên. Buổi tối còn đỡ. Ăn xong có thể nằm lịm đi. Nhưng ban ngày người ta phải hoạt động và nhất là phải đi. Với người còn khoẻ một chút như Nga đói mới đáng sợ.
Nhưng Nga thương Trọng hơn cả. Sức vóc như anh ấy một gô cháo có nước non gì. Lúc bình thường anh có thể ăn một hăng gô Liên Xô cơm. Nếu muốn có thể “ ăn thêm” nửa lon gô nữa. Vậy mà anh luôn nhường nhịn, và càng đói thì càng hoạt động. Vừa dừng lại trạm, căng tăng xong đâu đấy là anh lội ngay vào rừng. Khi thì nắm mộc nhĩ, khi thì vài củ chuối, ít trái sung. Rồi rau rệu, rau môn… đủ cả. Điều làm các cô ngạc nhiên là con người bình thường rất nông dân, khô khan ấy bỗng biến thành anh chàng nói chuyện pha trò rất duyên với một klho tiếu lâm, khiến cho những bữa ăn và đoạn đường đi bớt phần khó nhọc.
Hội cũng thay đổi, nhưng ngược lại. Vẻ linh lợi, hoạt bát của và vui vẻ dường như đã bị bóc ra khỏi con người anh. Anh trở nên lầm lì, khó hiểu và đôi khi cáu gắt vô cớ. Trọng hiểu ra rằng anh không thể trong mong ở Hội điều gì, trừ việc anh ta có thể mang mình đi đến nơi về đến chốn mà không phiền phức đến ai.
Nhưng cuộc sống không thể cắt chia đơn giản phần ai nấy lo như thế. Nhất là trong chiến tranh. Người này rút vai ra thì sức nặng tất yếu sẽ dồn lên người khác. Có thể Hội không có ý thức như vậy. Nhưng những việc anh làm cũng làm cho đoàn thu dung của Trọng đã vất vả lại vất vả thêm.
Mấy ngày đầu cũng không có vấn đề gì lắm. Nhưng anh thường hay đi tụt lại sau đoàn. Bây giờ thì quen rồi chứ lần đầu tiên Hội làm Trọng thốt tim. Mới hành quân đấy mà quay đi quay lại anh đã biến đâu như chui xuống đất. 9 giờ tối không thấy anh về, Trọng hoảng hốt lên báo trạm. Đám giao liên đèn đóm nháo nhào túa ra tìm khắp các xó xỉnh nhưng không thấy tăm hơi Hội đâu. Người ta nghi anh bị biệt kích bắt và đặt toàn trạm trong tình trạng báo động. Cả đêm mọi người nơm nớp lo sợ và sẵn sàng chuyển sang vị trí dự bị.
Sáng hôm sau Hội lù lù trở về. Thì ra giữa đường hành quân anh gặp một người đồng hương ở trạm tăng gia rủ anh vào chơi và ngủ luôn ở đó.
Trạm giao liên cạo cho Trọng một trận ra trò vì anh là trưởng đoàn. Nhưng khi Trọng nói chuyện với Hội thì Hội làm toáng lên. “ Thôi thì kệ xác anh ta”. Trọng nghĩ thế.
Nhưng có những điều Trọng không bỏ qua được. Chẳng hạn có lần Hội tìm cách bẫy gà của trạm giao liên. Không bẫy được anh ta tức tối vào trạm rinh luôn cả nồi thịt gà, với lý do trạm trưởng đã phổ biến là “ Trạm ăn gì anh em ăn nấy”. Trọng dứt khoắt bắt Hội đem trả. Không phải vì anh không muốn ăn thịt. Vì nồi thịt đó anh em giao liên cũng không được ăn. Họ để rành cho mấy anh thương binh vừa được chuyển từ trong chiến trường ra.
Các cô gái vốn đã ác cảm, càng thêm khó chịu với Hội. Nhất là ăn thì anh vẫn ăn với đoàn nhưng công việc thì anh tránh né. Hễ cứ đến dịp lấy gạo là anh đau bụng. Lúc nào anh cũng kêu mệt và bám lấy Hồng để xin sâm, củ sâm duy nhấtt còn lại của cả đoàn dành để đề phòng bất trắc.
Có một thời gian người ta thấy anh tích cực hẳn lên. Nhất là khi gạo ngày càng hiếm. Anh luôn luôn xung phong đi lấy gạo và nhận về mình phần mang vác nặng nhất. Trọng thấy hơi mừng. Nhưng rồi anh ngã ngửa ra rằng Hội tích cực là có động cơ. Một đồng chí giao liên đi sau đã phát hiện ra Hội dừng lại giữa đường nấu cơm ăn. Vì Hội để khói mất ăn toàn, anh giao liên đã bắn thủng hăng gô cảnh cáo Hội. Sau đó thông báo cho trưởng đoàn Trọng để phê bình.
*
* *
Mai lại lên cơn sốt.
Uống thuốc thì cô không dám, còn tiêm mông cô thì lại sợ thọt. Sự thực cũng có người đã bọ liệt chân vì mũi kim tiêm chạm phải dây thần kinh. Chỉ hình dung ra mình thọt chân là Mai đã thấy ớn lạnh. Vì vậy mới nói đến tiêm mông là cô giãy nảy lên.
Chỉ còn cách là tiêm vào bắp tay cho cô. Nhưng bắp tay Mai cũng không còn cách nào để cắm mũi tiêm nữa. Cái thứ thuốc ký ninh quái ác tiêm vào không chịu tiêu đi đã làm hai bắp tay cô cứng lại như đá khiến mũi tiêm của Hồng suýt gãy. Mấy lần Hồng cắm kim nửa chừng rồi lại rút ra. Đã thế bắp tay trái Mai lại bị áp xe đau nhức nhiều ngày. Hôm qua ở trạm xá người ta đã dùng dao chích ra và lấy đi được hơn một bát mủ. Bây giờ bắp thịt ở tay trái cô lép xẹp như vừa bị ai dùng dao khoét đi.
Cho đến hôm nay Mai đã bước vào Trường Sơn được hơn hai tháng. Hai tháng mà cô cảm thấy nó dài dằng dặc. Dài hơn cả quãng đời mà cô đã sống mấy chục năm. Quả thật, cái gian khổ mà cô vừa trải qua có khi còn hơn cả cái gian khổ của nhiều cuộc đời cộng lại gấp bội phần.
Mai thấy mừng vì con đường đang từ từ rút ngắn lại. Đôi lúc cô thấy bàng hoàng khi nhìn lại chặng đường mình đã vượt qua. Cô đi hồ hởi và có phần cuồng nhiệt. Đó là một trong những đặc chưng của thế hệ cô. Ở trường 105 người ta chuẩn bị cho cô những điều cần thiết và cả những điều không cần thiết. Rèn luyện chút đỉnh nhưng chủ yếu là khích lệ động viên. Bây giờ thì cô cảm thấy lờ mờ rằng có những điều ban lãnh đạo trường không biết nhưng có những điều người ta không cần biết. Hậu quả là các cô đã lĩnh đủ ngay trong đầu đoạn đường Trường Sơn. Vì không biết mắc võng mắc tăng. Ngay trong đêm mưa đầu tiên cả đoàn cô ngồi trong tăng mà giống như ngồi giữa rừng. Họ tiếp tục chịu trận như thế cho đến khi một đồng chí bộ đội chỉ cho cách mắc tăng, mắc võng.
Nhưng cuộc sống đã dậy cô. Dậy đến nơi đến chốn. Ngay cả những cái cô chưa hề biết hoặc chỉ biết đến như một ý niệm: chết chóc, khó khăn, đau thương bị lụy. Trước đó cô được nghe về chiến tranh không hoàn toàn như nó đã có và nhiều khi chỉ là sản phẩm đơn thuần của trí tưởng tượng. Cô được nhìn chiến tranh với góc độ sáng nhất: chủ nghĩa anh hùng và những chiến công. Kết quả luôn là những kết thúc có hậu và thuận chiều, ta thắng địch thua giống như trong các câu chuyện cổ. Khó khăn và chết chóc, nếu có, rốt cuộc cũng chỉ hiện lên với tư cách là một đồ vật trang sức, không làm người ta mấy quan tâm.
Quan niệm như vậy về chiến tranh, có một lúc quả nhiên đã động viên được người ta sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, nhưng cũng làm nảy sinh nhu cầu giả. Những câu chuyện cổ tích lãng mạng lập tức đổ sụp ngay khi đối mặt với hiện thực cay nghiệt của chiến tranh. Nhiều người hoang mang dao động. May mắn là đông đảo những người ở thế hệ cô đã được trang bị một bản lĩnh đủ sức chịu đựng trước những biến động của đời sống. Bản lĩnh ấy ở Mai, còn được nhân lên cấp số nhân bởi một mối thù bằng xương bằng thịt: đúng vào năm Mai ra trường, cả nhà cô trên đường đi sơ tán đã lãnh trọn một trái bom Mỹ, chỉ còn sót lại đứa em út duy nhất vừa tròn ba tuổi.
Cô đã gửi em cho một ông chú để lên đường…
Hồng thận trọng rút cái kim từ bắp tay Mai. Một dòng máu nhỏ ứa ra. Lau xong Hồng kéo tay áo Mai xuống và với tay lên đầu võng lấy bi đông nước nóng:
- Chịu khó chườm nước nóng cho nó mau tan thuốc. Tại cậu không chịu chườm nên mới đến nông nỗi này. Thôi nghỉ đi sẽ khỏi thôi.
Hồng đỡ Mai nằm xuống võng. Cô đặt bàn tay lên người Mai. Đột nhiên cô thấy Mai nhảy dựng lên:
- Trời ơi, đau.
Hồng tái mặt:
- Đau ở đâu?
Mai chỉ về phía bụng:
- Ở đây.
Hồng hấp tấp kéo áo Mai lên. Phía bên phải bụng, ngang thắt lưng Mai nổi lên một cục thịt to tướng bằng ngón tay cái. Hồng hốt hoảng:
- Cái gì thế này.
Mồ hôi Mai rịn ra trên trán. Cô nói khó nhọc:
- Nhọt
- Nó lên từ bao giờ
- Ba bốn bữa nay rồi.
Hồng nhăn mặt:
- Sao cậu không nói gì cả.
- Mình nghĩ là nhọt thường thôi.
- Nhọt thường. Nhọt thường mà sao mới chạm nhẹ vào cậu đã la lên như phải bóng ấy. Đưa xem nào.
Hồng đưa tay sờ nhẹ lên cục thịt trên bụng Mai. Cô hỏi nhỏ:
- Đau không/
Mai lắc đầu:
- Không.
Sao lạ vậy. Lúc nãy thì đau, bây giờ lại không. Mà sao nhọt gì kỳ quặc thế này. Nó chỉ dính vào da bụng Mai bằng mẩu da nhỏ bằng hạt gạo, giống như một cái gì gắn từ bên ngoài vào. Đúng là không phải nhọt. Vậy là cái gì. Cô lục trong đầu cả cái vốn y sĩ ít ỏi đã học được ở trường. Không có loại nhọt nào và loại bệnh nào có biến chứng như thế cả. Hình như…nó là một con gì thì đúng hơn. Thôi rồi. Chắc là nó quá. Cô thở phào:
- Không phải nhọt?
Mai nhổm dậy:
- Vậy thì gì, hay là ung thư?
Hồng mỉm cười, nụ cười xanh như tàu lá:
- Đào đâu ra ung thư ở đây. Một con ve. Cậu biết con ve không.
- Ve gì mà lạ vậy?
- Không phải ve sầu đâu. Giống ve này là một loại côn trùng kiểu như con chấy, con rận ấy. Nó rúc đầu vào bụng cậu, cắn cho no máu. Nhưng vì hàm răng nó cắn chặt nên nó dính vào đó luôn. Bây giờ thì mình biết rồi. Cậu không sốt rét. Cậu sốt vì bị ve cắn. Không tin thì mình làm thử cho cậu coi. Chỉ cần dứt con ve ra là cậu hết sốt liền.
- Nhưng đau lắm.
- Chỉ đau chút xíu thôi. Nếu không thì cậu còn sốt đến khi nào con ve tự rơi ra.
Hồng đưa cái panh về phía con ve. Mai cắn răng. Nhưng cô không kìm được một tiếng kêu.
Tiếng kêu làm các cô gái hốt hoảng chạy lại. Hồng giơ con ve lên:
- Cục ung thư của cái Mai đây.
Trọng bước vội tới:
- Cái gì vậy Hồng? À, con ve. Nó ở đâu đấy?
- Nó cắn chị Mai.
Liên bất giác vén áo lên. Trọng phì cười:
- Đây đâu phải chỗ cô tìm ve. Liên đỏ mặt bỏ áo xuống. Hồng đưa con ve cho Trọng. Anh rút con dao găm ở đầu võng Mai:
- Các cô xem này.
Anh chọc con dao vào con ve. Một dòng máu bầm đen vọt ra chảy ướt cả một lõm đất trống
- Nó hút từng đây máu làm sao cô Mai không sốt được.
Các cô gái lè lưỡi. Mai cũng nhỏm dậy nhìn. Cô hết sốt thật. Trọng đứng dậy.
- Cô Mai nhớ xoa dầu vào vết cắn nhé. Nó sẽ còn đau lâu đấy. Vết sẹo cũng không mất đi đâu. Tiếc là ở đây lại không có nghệ.
Nga liếc nhìn Trọng, tinh quái cười sằng sặc:
- Mai đừng lo. Chẳng có ma nào thấy được vết sẹo ấy đâu, trừ anh Trọng. Mà anh Trọng thì…
Mai đỏ mặt còn Trọng thì quay ngoắt đi nhue chạm phải nước sôi. Những tiếng cười ranh mãnh còn đuổi mãi theo anh cho đến tận bờ suối.
*
* *
Trạm giao liên sôi sục lên vì bị mất một con lơn con. Trạm trưởng muốn phát khóc lên vì tức. Đấy là con lợn còn lại duy nhất của trạm anh. Cách đây hai tháng, trạm giao liên bị trúng B52. Đàn lơn nái 15 con của anh chết sạch. Chỉ sống sót một con còi cọc nhất. Để có chút gì cải thiện cho bồ đội và cho khách, nhất là cho thương binh ra, anh đã phải gây dựng từ đầu. Cả trạm nhịn cả phần ăn của mình nuôi con lợn lơn lên dần dần. Nó vừa được 10 ký.
Vậy mà bỗng nhiên con lợn biến mất. Nghe tin ấy trạm trưởng sững sờ đánh rớt gô cơm. Rồi cả trạm đổ đi tìm. Con lợn biến đi đâu như có phép tàng hình. Trạm trưởng nghi là có một ông khách nào đấy đã thịt con lợn của trạm để ăn.
Mũi truy tìm được hướng vào các lán khách.
Đám giao liên vào các nhà lay võng đòi khám ba lô và ngửi hăng gô. Các cô gái không hiểu điều gì xảy ra nhao nhao phản đối. Hương nhăn mặt hỏi anh lính có cái đầu bù xù như người rừng:
- Các anh tìm gì mà đòi khám ba lô tụi tôi thế?
Người lính gắt gỏng:
- Tìm con heo.
Hương tỏ vẻ ngơ ngác:
- Con heo là con gì?
- Thì là con heo chứ là con gì. Cô giả vờ làm chi vậy – Anh ngẩng mặt lên vẻ nghi ngờ rồi như chợt nhớ ra điều gì – nó là con lợn cô hiểu chưa.
Nga châm biếm:
- Nhưng con lơn có phải là cục đất mà tìm trong ba lô. Anh phải tìm trong chuồng của nó chứ.
Anh giao liên càng cáu:
- Không cục đất nhưng là cục thịt. Người ta đã biến nó thành cục thịt rồi – Anh khoa tay phân bua – Cả trạm chỉ còn một con heo, chúng tôi định gây giống. Vậy mà người ta đang taqam thịt nó.
Hồng ngồi võng nói vọng ra:
- Ai lại làm thịt. Chắc nó lạc đâu đấy thôi.
Anh giao liên quả quyết:
- Không thể lạc được con heo khôn lắm. Chúng tôi tìm hết các xó xỉnh rồi. Chúng tôi còn phát hiện có vết máu kia mà.
Nga mỉm cười:
- Thì cứ cho là có người làm thịt đi. Nhưng dứt khoát không thể là phụ nữ. Vả lại, người lịch sự không ai khám ba lô người phụ nữ bao giờ.
Anh giao liên vừa đưa tay lên ba lô của Nga vội co tay lại:
- Nhưng mà…
- Nếu thấy nhưng thì anh khám đi. Có điều là có thuốc nổ trong đó đấy nhé. Coi chừng nó nổ cụt tay chứ chẳng chơi.
Da mặt anh giao liên từ xanh xám chuyển sang đỏ lựng. Anh đi như chạy trốn ra khỏi lán nữ. Trong khi các cô gái được cười một trận no nê.
Lúc đó trạm trưởng cũng cho ngừng việc tìm kiếm. Tìm thấy cũng không làm nó sống lại được. Nếu nó đã bị giết thịt. Thôi thì ai ăn cũng được miễn là nó có ích, miễn là nó giúp họ thêm một chút sức mạnh trên đường hành quân. Anh chỉ buồn rầu là không biết kiếm đâu ra con heo giống khác và bực bội là không hiểu nó biến đi như thế nào.
*
* *
Hình như, cái bản chất con người càng trong khó khăn càng bộc lộ một cách rõ ràng, phá đi cái vở che đậy nó cho dù cái vỏ ấy có vững chắc đến đâu.
Nhưng khác với loại người hai mặt Hội không sống giả dối. Anh sống đúng với bản chất thật của mình. Trước kia anh sống vì anh, anh đi B có phần vì mình, bây giờ anh cũng vì mình. Thế thôi. Nhưng trong những khoảnh khắc khắc nghiệt của đời sống, những đòi hỏi sự phân đôi rạch ròi thì những đặc tính vốn có ấy dường như tăng lên theo cấp số nhận. Người tốt tốt hơn và người xâu số hơn.
Với Hội, mọi sự không hẳn như thế. Anh sống vì mình một cách hồn nhiên. Quan niệm ấy vốn đã thấm vào máu của anh từ trong môi trường mà anh đã sống, nơi mà cái chữ tôi luôn luôn được khẳng định như một đại từ viết hoa. Anh ý thức được quyền sở hữu của mình không chỉ từ một lời yêu cầu mà cả từ một câu quát tháo.
Ác thay, trong chiến tranh, cái chữ tôi càng lớn lên thì những phẩm chất khác trong người càng bé lại. Nó như một nhát dao phũ phàng cắt dần anh ra khỏi đồng đội của anh. Cũng có lúc Hội muốn vùng lên để bóp chết cái tôi ấy nhưng nó bám lấy anh như một định mệnh.
Anh biết là mình ngày càng đi xa. Nhưng mũi lao đã phóng ra. Vả lại cái tôi ấy sao nó có sức cám dỗ ma quỷ đến thế. Nó như một bản năng của con người. Nó có móng vuốt sắc nên bám vào người dai như đỉa đói, tham lam vô độ. Bây giờ thì nó nằm gọn trong nhịp co bóp của cái dạ dày. Có thể sẽ không có điều gì xảy ra nếu số phận tiếp tục chiều đãi anh.
Mọi sự bắt đầu từ khi anh mất chiếc máy ảnh. Tất nhiên anh đã biết lo xa. Vài hộp sữa, một ký đường ở Trường Sơn đã là triệu phú rồi. Đầu tiên nó chỉ là ý thức bảo vệ quyền sở hữu. Anh ăn một mình, uống một mình. Không thích đi xin người nào cũng như không muốn cho ai. Anh đối phó với cái nhìn của các cô gái bằng ý nghĩ của tôi.
Nhưng mọi sự lo xa đều có giới hạn. Kho báu rồi cũng hết. Quyền sở hữu cũng không còn. Trong anh dần dần nổi lên cái ý thức sâm lấn. Nhất là từ khi khẩu phần ăn hạ xuống chỉ còn ba lạng một ngày.
Anh lấy gạo của cả đoàn dấm dúi nấu cơm ăn. Dấn sâu hơn anh bắt gà và lấy trộm gạo của trạm. Hình như có lần cậu Trọng bảo rằng làm thế là trái với nguyên tắc đạo đức, lúc anh bưng nồi thịt của trạm về ăn. Nhưng Hội không trọng những nguyên tắc. Ở đời khôn sống mống chết. Anh phải đâu phải ke thiển cận. Anh chỉ muốn giữ sức khoẻ để đi đến nơi về đến chốn. Như thế có lợi cho cách mạng hơn. Mà gạo và gà cũng là của cách mạng chứ của riêng ai. Người ta tìm ra con đường Trường sơn đâu phải để cho con người chết dần chết mòn ở trong rừng. Những việc làm của anh, vì vậy, là việc làm duy nhất đúng. Nhịn đói lê tấm thân tàn, trong khi xung quanh có khối thứ có thể ăn được là một điều không khôn ngoan. Hơn nữa, sẽ là có tội nếu anh để mình kiệt sức nằm xuống. Chết là hết và không giải quyết được gì. Chỉ có cuộc sống mới đem lại khả năng. Chỉ có sống anh mới có thể đem lại cái nhiệt tình tuổi trẻ khi anh đi B để cống hiến và sáng tạo. Anh sẽ để lại cho đời nhứng bộ phim quý giá do anh quay. Có thể sẽ có nhiều người không đi đến nơi, nhưng anh nhất định phải đến. Đến bằng mọi giá. Nhất định phải là như thế.
Quyết định ấy không nung nóng thêm quyết tâm. Ngược lại nó khiến cho những thèm khát ngày càng quá quawst và sôi sục. Nó không cho anh dừng lại thở. Nó thôi thúc anh dân lên. Chẳng hạn như hôm qua đây.
*
* *
Hội không đứng vững trên đôi chân của mình, anh lê bước đằng sau mọi người. Đã mấy ngày hôm nay lúc nào anh cũng thấy mình ở trong trạng thái rũ rượi, kiệt sức và có cảm giác là không chịu nổi nỗi cực nhọc này. Anh thấy sức mình cạn đi nhanh chóng, nhất là sau những bữa cơm chỉ được một góc dạ dày. Đầu óc anh trùng xuống, trơ ra. Anh kiếm một gốc cây bên đường hạ ba lô và nằm vật xuống, thở.
Đúng lúc ấy thì có một đám chiến sĩ từ phía dưới dấn lên.
Tiếng cười rất trong và tiếng cái nhau chí choé của đám lính trẻ làm anh sực tỉnh sau mấy phút thiếp đi ngắn ngủi. Hình như cái giọng nói hào hứng của các cậu ấy làm cái giác quan của anh ngộ nguậy sống dậy. Đầu tiên, Hội nghe tiếng một cậu lính trẻ, có lẽ là người xứ Nghệ:
- Tớ đố các cậu trên đời này có món gì ngon nhất?
Tiếng một cậu khác:
- Thịt chứ cái gì.
Tiếng cậu xứ Nghệ:
- Hứ, thịt mà ngon. Cậu cứ ăn thịt cả đời xem có chịu được không.
- Thì cái gì ăn nhiều mà không chán.
Cậu xứ Nghệ ra giọng kẻ cả. Thế mà có thứ ăn suốt đời không chán đó.
- Cái gì?
- Nhút. Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn, các cậu có nghe câu ấy bao giờ không?
Tiếng một cậu khác cười hô hố:
- Nhút mà ngon. Sao không nói nghèo quá nên phải ăn, có dẽ nghe hơn không. Coi chừng bố còn dám nói gió mát nhất nước ta là gió Lào không chừng.
Cậu xứ Nghệ có vẻ tụt hứng không nói gì. Một cậu có lẽ là người Thanh Hoá, đố:
- Đố các cậu cầu nào quan trọng nhất.
Một cậu mau miệng:
- Long Biên.
Cậu Thanh Hoá xề môi:
- Long Biên mà quan trọng.
- Thế cầu nào?
- Hàm Rồng. Này nhé, Hàm Rồng mà tắc thì các cậu đi B bằng cái gì, đúng không nào. Mà các kỹ sư Trung Quốc giỏi thật nhá. Móng cầu bom Mỹ đánh mãi không đổ, tàu đi qua cũng không rung chuyển gì. Các cậu biết không, móng cầu họ làm sâu xuống lòng sông đến 1, 2 mét đấy.
- Nhưng cầu Long Biên dài nhất – Cậu lúc nãy tiếp lời. Tiếng cậu xứ Nghệ:
- Ừ, có đến 5 cây số ấy chứ. Mình đi bộ qua mà muốn vã mồ hôi. Mà này, đê sông Hồng to lắm nhé.
- Bằng đê sông Mã chứ gì.
- Chắc vậy. Nhưng không biết sông Hồng có sâu không nhỉ?
Một cậu có vẻ hiểu biết:
- Phải mấy nghìn mét
Cậu khác cãi lại:
- Bố ơi làm gì có sông nào sâu đến mấy nghìn mét. Nó là biển à.
- Thì cũng phải mấy trăm mét.
Hội phì cười. Dân mình nói chuyện sông Hồng và cầu Long Biên mà nghe như chuyện cổ tích nước ngoài. Nhưng hình như câu chuyện tào lao ấy lại có tác dụng kích thích sức mạnh của anh. Đám lính trẻ nghe tiếng cười, dừng lại. Một cậu reo lên:
- A, anh quay phim vui tính đây rồi. Cho bọn em một “ bô” kỷ niệm đi.
Hồi ngồi dậy:
- Thì các cậu ngồi xuống đây nghỉ đã.
Cả bọn bỏ ba lô xuống.
- Anh đi một mình à?
- Rất tiếc là nước mình không có phép đưa phu nhân đi theo. Thế còn các cậu?
Cậu xứ Nghệ trả lời:
- Bọn em có ba đứa. Một đoàn thu dung.
- Cậu là người Nghi Lộc, phải không?
Cậu xứ Nghệ tròn mắt:
- Sao anh biết?
Hội mỉm cười:
- Thì nghe cái giọng cậu là tôi biết. Này nói cho cậu hay, con ruồi bay qua tôi còn biết con đực con cái nữa là.
Cậu Thanh Hoá tò mò:
- Thế anh đoán em là người ở đâu?
- Việc gì tôi phải đoán. Tôi nói chính xác kìa. Cậu là nước cộng hoà Thanh Hoá, mà lại là Thanh Hoá Vĩnh Lộc. Đúng chưa?
Cậu Thanh Hoá vỗ đùi:
- Anh thánh thật. Thế còn thằng này – Vừa nói cậu ta vừa chỉ một cậu lính trẻ mặt búng ra sữa đang đỏ mặt lên.
Cậu xứ Nghệ suýt xoa:
- Anh đi với bọn em đi, em nhường chức trưởng đoàn cho anh.
Hội cười hơ hớ:
- Cậu tưởng cái trưởng đoàn thu dung 3 người của cậu to lắm đấy mà đem đi dụ tôi. Nhưng thôi, để tôi suy nghĩ xem đã. À, các cậu là lính gì thế.
Cậu Thanh Hoá nhanh nhẩu:
- Bọn em là đặc công.
Hội sáng mắt:
- Đặc công hả. Hay lắm. Hoan hô đặc công. Hoan hô bộ đội đặc biệt tinh nhụê. Mà các cậu có tinh nhuệ thật không?
Cậu Thái Bình ỏn ẻn:
- Anh cứ thử đi.
Hội cười:
- Để xem. Thế các cậu có gì ăn không? Lương khô chẳng hạn.
Mấy cậu lính trẻ xịu mặt. Cậu xứ Nghệ lắc đầu:
- Không còn gì anh ạ. Bọn em đói lắm.
- Thì đi kiếm. Lính đặc công mà chịu đói à.
- Nhưng kiếm ở đâu?
Hội nháy mắt:
- Thiếu gì chỗ. Rồi tôi chỉ cho. Này nhé, các cậu có thấy trên đường đi có những chỗ họ ghi bảng là có bom nổ chậm không. Chẳng có quả bom nào đâu. Đó là những cái kho, nếu không thì là trạm tăng gia hay cái gì đại loại như thế. Họ che mắt những người đi đường để đám giao liên ăn uống với nhau. Chúng mình phải phân phối lại chứ. Thôi được, tôi nhận làm trưởng đoàn. Anh em mình sẽ đi đến cùng trời cuối đất. Chịu chứ.
Đám lính trẻ thích thú reo lên:
- Chịu.
Ngay chiều hôm ấy các cậu đã có dịp trổ tài.
Đầu tiên Hội phái anh chàng người Thanh Hoá tên Hiệp đi trinh sát. Nhưng chỉ một lúc sau Hiệp đã trở về, vẻ thất vọng ra mặt:
- Không có cái gì anh Hội ạ.
Hội lấy bình tông nước rót ra một nắp hăng gô:
- Uống đi đã.
Hiệp cầm gô nước tu đánh ực:
- Giờ thì cậu kể tỉ mỉ xem?
Hiệp đưa ống tay áo lên lau mép:
- Trạm này nghèo quá anh ạ. Em đã vào kho. Không có gì cả. Chỉ có ít gạo mốc thôi.
- Sao cậu khờ thế, không xúc lấy vài lon gạo. Chiều nay gạo của mình chỉ còn đủ để nấu cháo thôi.
- Em không nỡ.
- Thôi được rồi. Đúng là không còn gì thật à, cậu thử nghĩ kỹ xem.
Hiệp có vẻ suy nghĩ, lát sau cậu nói nhỏ:
- Em thấy có lợn nữa.
Hội vỗ đùi đánh đét:
- Lợn à, hay lắm. Nhiều không?
- Có một con thôi anh. Mà nhỏ lắm.
- Nhỏ càng hay. Lớn quá bắt về cậu bỏ vào đâu.
Hội gọi Cự, anh chàng xứ Nghệ và cậu Tài Thái Bình tới:
- Có con lơn, bây giờ các cậu hành động đi. Càng sớm càng tốt.
Hiệp ngần ngừ:
- Nhưng em sợ. Họ chỉ còn một con.
Hội động viên:
- Trời ơi cậu đừng làm hổ danh lính đặc công . Mà họ không chỉ có một con đâu. Vả lại họ ít gạo thế làm sao nuôi nổi lợn. Nghĩa là họ bớt xén của khách đi đường. Vậy thì con lợn ấy đâu phải của riêng họ. Họ ở một chỗ còn bọn mình phải đi. Mà nhiệm vụ các cậu bây giờ là gì nào. Bằng mọi giá phải đi đến nơi. Thế đấy. Bằng mọi giá hiểu không?
Các cậu lính trẻ nghe cũng xuôi tai. Chuyện tiếp theo không có gì đáng nói. Một con lợn con với lính đặc công thì bõ bèn gì. Chỉ loáng mắt con lợn con đã chui vào ba lô. Sau đó nó được xẻ ra bọc vào ni lông và đem ngâm dưới suối.
Trong khi các cậu lính trẻ đang loay hoay với con lợn thì Hội vào trạm. Thường cứ đến trạm là anh ta hay la cà ở bếp ăn. Làm một miếng cháy chẳng hạn cũng đỡ thêm cho cái dạ dày. Anh để ý thấy cậu cấp dưỡng lùi hai củ khoai lang vào bếp. Hội ứa nước miếng.
Khi củ khoai gần chín thì cả trạm nháo lên đi tìm con lợn. Ngồi một lúc không thấy cậu cấp dưỡng trở lại. Quay về để củ khoai ở bếp thì anh sợ nó cháy, tiếc. Vì vậy anh kều hai củ khoai và thuận tay nhét vào túi quần,quay ra. Củ khoai nóng làm Hội cứ nhảy lên, khiến Trọng gặp anh ở đường ngỡ là Hội đang lên cơn bệnh thần kinh.
Sau khi ăn xong một bữa ăn, tưởng như ngon nhất trên đời. Hội leo lên võng, ngủ.
Nhưng bữa ăn đã hại anh.
Nửa đêm, anh thấy bụng mình nhói lên. Rồi sau đó là đau quằn quại. Chất khoai lang ngọt và chất mỡ đã gây ra cơn đau bụng dữ dội. Cơn đau làm náo động cả đám lính trẻ. Lần mò trong đêm tối, các cậu lập tức cáng anh vào bệnh viện ngay trong đêm. Ngay hôm sau cả ba cậu đều lăn ra sốt.
VIII
Leo xuất hai ngày đường mới lên đỉnh cao nguyên Bơ – lô – ven. Anh nghe nói đây mới chỉ là sườn của cao nguyên thôi. Đường đi tương đối bằng phẳng. Những vùng cỏ mọc xanh mướt, hoa cỏ trắng như bông. Lâu lâu Liên mới thấy những vùng tím hơn hoa mua ở vùng đồi trung du quê cô thì phải.
Suốt cả ngày leo dốc bở hơi tai, ngờ được đi trên đồng bằng, Liên thấy nhẹ người. Mặt trời như một quả tim khổng lồ đang từ từ chui vào ngực đất còn ngời lên những luồng ánh sáng kỳ ảo. Hoàng hôn ở Bơ – lô – ven này thật đặc biệt. Tím biếc mà rực rỡ. Liên đứng lặng đi trước bàn tay pha màu thiên tài của tạo hoá. Cũng như hôm qua cô đã đứng lặng trước những hang đá kỳ dị, nhấp nhô nhũ đá tưởng như không một nghệ sĩ nào trên trái đất có thể sáng tạo ra nổi.
Nhưng cái hấp dẫn Liên nhất ở đây là nấm. Những cây nấm bụ bẫm mũ to như cái bát ô tô có sức khêu gợi làm sao. Nấm trắng, nấm đỏ, nấm vàng, nấm nâu mọc rải rác dọc đường. Chỉ mới trông thấy mà đã muốn đưa lên vào miệng. Nhưng phần lớn các loại nấm thường là nấm độc. Chiều qua cả một đại đội bộ đội phải đi cấp cứu vì ăn phải loại nấm độc này.
Nghĩ đến nấm độc Liên chưng hửng. Mọi toan tính kiếm ít nấm để cải thiện đã bị ý nghĩ ấy cắt đứt.
Liên giơ tay gạt mồ hôi.
Đuờng xuống dố tuy không vất vả nhưng khó đi hơn. Liên luôn luôn phải nhờ sự chợ giúp của cái gậ mà cái chân cứ run run lẩy bẩy. Cô cảm giác như có một sức mạnh nào đó đang băng băng kéo cô đi và chỉ cần buông cây gậy ra là cô sẽ bị hút vào cái khoảng không vô tận đó.
Liên không sợ gian khổ. Ngay từ bé cô đã làm quen với tất cả những điều ấy. Sáu tuổi cô đã nếm mùi đói vào những năm mất mùa điêu đứng vì hạn hán. Cho đến bây giờ cô còn nhớ rõ như in cái vị cháo cám củ chuối, mà chỉ mới ngửi mùi cô đã phát run lên. 9 tuổi hàng ngày cô phải cắt một gánh cỏ lớn hơn người và 13 tuổi thì cô thanh lao động chính, một trong những chỗ dựa chủ yếu của gia đình cô.
Nhưng cô rất ham học. Dường như cô học để bù đắp những thiếu thốn tri thức của cha mẹ cô. Cô mơ ước mình sẽ được vào trường đại học. Mong ước ấy càng được nung nấu khi miền quê hoang vắng của cô được đón tiếp một đoàn sinh viên thực tập. Lần đâu tiên, trước mắt cô thôn nữ ấy, một con đường đầy rạng rỡ và đầy hy vọng đã mở ra.
Nhưng cô không vào được đại học. Cuối năm lớp 10 cô bị ốm một trận thập tử nhất sinh. Cô đành dừng ước mơ ở một trường trung cấp điện báo. Và, cũng ở đó cô con gái nông thôn đang loá mắt vì cái văn minh thành thị đã bị chính cái văn minh ấy cho nếm vị chát đầu tiên của cuộc đời.
Sau nỗi căm giận người con trai, căm giận tưởng có thể xé nát anh ta ra, trái tim con gái của cô giá lạnh và cuối cùng nó đông cứng lại như bị đóng băng. Cô sống cô động như một kẻ bị đóng trong hòm kín. Anh con trai thứ hai đã lắc đầu thất vọng vì không chọc thủng nổi khối băng. Người duy nhất có khả năng làm tan khối băng đó là anh sĩ quan tên lửa, chồng cưới hụt của cô. Tiếc thay anh đã vĩnh viễn nằm lại ở một mảnh đất ven cầu Hàm Rồng.
Cái chết của người sĩ quan tên lửa đã nhóm lên trong cô một ngọn lửa. Ngọn lửa ấy càng sôi lên lúc anh chàng lừa gạt cô tìm mọi cách thác bệnh để trốn đi nghĩa vụ. Cô tình nguyện đi B vào lúc cô ra trường và được chấp thuận. Cô không chối cãi rằng trong chuyện cô đi B có phần là để thể hiện sự khinh miệt đối với anh con trai hèn nhát kia.
Không biết do cái không khí hối hả của những ngày đầu đi Trường Sơn, hay do nếp sống hồn nhiên của các bạn, Liên thấy lòng mình dịu đi. Cái vỏ bọc lạnh lùng trong trái tim cô đã rạn nứt và thực sự tan ra như băng giá trước ánh nắng xuân lúc cô gặp Trọng.
Nhưng Trọng không hề biết.
Cái bản năng nhạy bén giới tính của anh đã bị đè bẹp đi bởi tính tình nhút nhát cố hữu. Mặc dù nhiều lúc Liên đã liều lĩnh phát đi những tín hiệu, đến nỗi mấy cô gái đã có lần đã trêu chọc cô đến phát khóc. Hình như Trọng chưa kịp rút kinh nghiệm sau mối tình cay đắng và vĩnh viễn câm lặng kia. Chỉ có một lần Trọng giật mình khi bắt gặp đôi mắt Liên. Nó giống hệt như ánh mắt người bạn gái ở quê, lúc cô gặp anh giữa đường, trong kỳ nghỉ phép khi cô về nhà chồng được hai tháng. Trọng không cắt nghĩa được cái nhìn kia, phần vì vốn trí thức về tình yêu ít ỏi của anh, phần vì với những công việc bề bộn của Trọng bây giờ thì điều ấy thật nhỏ bé. Cái anh lo lắng nhất là làm sao dẫn được các cô gái đi đến nơi, về đến chốn. Vậy thôi. Quá lúc Liên thầm trách anh quá vô tư. Nhưng rồi cô thấy sự trách cứ ấy là hoàn toàn vô căn cứ. Cô đã biết gì về đời tư của anh? Cho đến bây giờ cô vẫn không sao quên được hình dáng cô gái có mái tóc dài xổ tung chới với chạy theo đoàn xe của cô trong dòng bụi đỏ mù mịt. Cô sẽ là kẻ có tội nếu anh có một cô gái như thế chờ đợi, một sự chờ đợi cũng dũng cảm không kém sự dũng cảm của người lính cầm súng.
Tuy đã xác định như thế nhưng Liên vẫn hồi hộp và e lệ mỗi khi gặp Trọng. Cái ý định hỏi thẳng anh vào những lúc ấy bỗng tuột đi đâu mất. Có lần cô gặp một dịp may, cùng ăn cơm với anh. Ngoài trời mưa rơi rả rích. Trong tăng chỉ có hai người. Cô thu hết can đảm nói:
- Anh gầy quá đấy.
Trọng cười:
- Thì cô có hơn gì tôi đâu.
Liên không biết tiếp tục câu chuyện như thế nào. Cô cắn đầu ngón tay. May quá cô nhìn thấy vai áo Trọng có một vết rách:
- Áo anh rách này, anh cởi em vá cho.
Trọng ngần ngừ. Nhưng Liên đã đưa tay lục ba lô lấy ra gói kim chỉ. Cô giục:
- Anh đưa em.
Trọng không còn cachs từ chối nào khác, buộc lòng cởi áo đưa cho Liên. Cô đón chiếc áo mà thấy tay mình run lên. Cô muốn ngột thở. Nhưng công việc rất phụ nữ này đánh thức trong cô bản năng của người mẹ, làm cô bình tĩnh lại. Cô khẽ cười:
- Anh Trọng này?
- Gì?
- Ai thường vá áo cho anh?
- Tôi tự vá lấy.
- Thế mẹ anh đâu?
Trọng buồn buồn:
- Mẹ tôi chết từ năm tôi 7 tuổi.
Liên liều mạng:
- Thế còn chị ấy?
Trọng ngơ ngác:
- Chị nào? Tôi có chị em gì đâu. Tôi là con một.
Liên khúc khích cười:
- Là em hỏi chị… ấy kia?
Trọng buột miệng:
- Lấy chồng rồi.
- Lấy chồng? Nghĩa là sao?
Trọng đỏ mặt, bối rối:
- Chẳng là tôi yêu một cô gái nhưng cô ấy đã lấy chồng.
- Nhưng sao lại lấy chồng?
Trọng càng bối rối hơn:
- Vì cô ấy không biết là tôi yêu.
- Thế anh không nói với chị ấy à?
Trọng thở dài:
- Tôi… không dám nói.
Liên buông chiếc áo xuống:
- Thế… bây giờ anh có dám nói không?
Trọng đón cái áo từ tay Liên. Anh thấy đôi mắt cô rực lên. Bây giờ thì anh hiểu. Nhưng anh hơi bất ngờ. Anh đành phải trả lời một câu nước đôi:
- Nếu cần thì tôi sẽ nói.
Nhưng Liên cũng chỉ chờ đợi có thế. Cô không thể đi xa hơn. Vả lại cái quan trọng nhất là anh ấy chưa có người yêu thì cô biết rồi. Cô thở phào như người chút được gánh nặng lúc phải đi quá một đoạn đường đầy khó nhọc…
Nắng tự nhiên nhạt hẳn đi, mấy xám rùng rùng trôi về. Rồi gió to. Liên lo lắng nhìn bầu trời. Mưa mất.
Mưa thật. Mưa ập đến khi cả đoàn người chỉ kịp khoác vải nhựa lên người. Mưa đổ xuống ào ạt tưởng như muốn quét sạch đám người nhỏ bé kia xuống vực. Chỉ mộ lúc sau, cái khe khô khốc bên phải đường mòn đã biến thành một con suối cuồn cuồn réo. Liên rùng mình. Cô đã quá quên với những cơn mưa thất thường không vần vũ và ầm ĩ như những cơn mưa rào ở đồng bằng Bắc Bộ. Chỉ còn cách là đứng chờ cho tạnh cơn mưa, và mặc cho những hạt mưa ném lên người như roi quất.
May mắn là chỉ lát sau, mưa tạnh. Nhưng con đường đã bóng nhẫy, trơn tuột. Cả đoàn đi như rùa bò. Chốc chốc lại có người trượt chân. Tiếng la hét í oái vang lên.
*
* *
Liên dồn sức vào cây gậy và vẫn cẩn thận trọng bước. Cả người cô ướt đẫm nước mưa nhưng cô không thấy lạnh. Phía sau cô thỉnh thoảng Trọng lại nói với lên:
- Đi cẩn thận nghe, Liên.
Liên không đáp. Cô chỉ gật đầu. Đường càng xuống dưới càng trơn dữ vì những người đi trước đã lội xục bùn lên. Liên đi lại đã khó khăn lại càng khó khăn hơn vì hôm qua cô đánh mất một chiếc dép. Trọng phải cắt mấy bao gạo làm chiếc dép bằng vải để cô đi đỡ. Đi đường khô còn tạm. Nhưng bây giờ là đường trơn. Chiếc dép bằng vải chưa đặt xuống đất đã muốn chuội đi. Đúng vào lúc cô đặt chân xuống một bậc đất nhẫy bùn ven đường mòn.
Phía sau, nhìn thấy cả người Liên giáng đánh rầm xuống đất, Trọng buông gậy, nhào tới. Anh vừa kịp nắm quai ba lô của Liên thì hai người đã bị lôi tuột đi. Nhưng họ chỉ bị trôi khoảng 10 mét. Trọng may mắn túm được một bụi mua và dừng lại. Cả đoàn quân nháo lên. Khi người ta đỡ được hai người dậy thì Liên đã xỉu đi vì sợ hãi. Chiếc quần đen rách toạc một miếng ở đầu gối. Một dòng máu chảy dài trên bắp chân trắng xanh. Trọng cũng đứng dậy. Chiếc ba lô đã cứu anh. Chỉ ngồi khoảng 10 phút là anh định thần và có thể tập tễnh đi xuống. Nhưng họ phải vất vả lắm mới đưa Liên tới được trạm, với sự trợ giúp tích cực của hai anh bộ đội đặc công.
Về đến trạm thì Liên tỉnh lại. Lúc ấy đã chạng vạng tối. Cả bọn ướt đẫm nước mưa và bê bết bùi đất. Trọng cứ để như vậy buông người ngồi xuống gốc cây. Lúc ấy anh mới thấy mình nhão ra. Sờ tay lên bao gạo mang ngang lưng đã ướt đẫm từ lúc nào. Trọng hoảng hốt tháo bao gạo ra. Từ trong bao gạo nước vẫn rỉ ra từng giọt, từng giọt, trắng nhưn sữa.
*
* *
Trong suốt cuộc đời đi học của mình, Hương nghe nhiều cách giải nghĩa về câu ca dao “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nhưng cô thích cách giải nghĩa của cha cô hơn. Ông đã đổi chữ cũng thành chữ phải và nhấn mạnh chất nhân bản của từ này. Suy rộng ra đó là đặc tính nhân đạo và yêu hoà bình của cả một dân tộc.
Cô nghĩ là cha cô đúng. Không ai thích cầm súng. Những kẻ thích cầm súng là những người mất bản chất người. Người ta chỉ buộc phải cầm súng khi Tổ quốc có xâm lược. Cái nghĩa vụ tự nguyện ấy cho phép con người xả thân hy sinh vì mục đích tối cao. Cũng như không ai quen với gian khổ nhưng người ta vẫn chấp nhận với gian khổ và kiên tâm vượt qua nó.
Hương cũng vậy. Cô không hề quen với tất cả những gì cô đã vượt qua. Bàn chân cô thật nhỏ bé so với những cái gì đang cản ngại con đường cô đang đi tới. Nhiều lúc cô có cảm giác như cả miền đất hung dữ này đều rình rập và sẵn sàng trút lôi đình lên vai cô. Mỗi con muỗi, con vắt, con rắn, cơn mưa ở Trường Sơn đều to lớn và độc ác khác thường, với những người bạc nhược thì trở ngại ấy sẽ trở thành một bức tường thép.
Hương cũng có những phút bạc nhược như thế. Nhưng nó chỉ là những giây phút thoảng qua.
Đường xuống suối không xa nhưng phải qua một đoạn dốc thẳng đứng. Hương cũng không hiểu sao trạm lại không đặt ngay chỗ suối nước cho tiện. Nhưng lúc xuống suối cô mới hiểu: không thể nào đặt trạm ở đây. Lý do đơn giản là không có địa hình.
Suốt cả ngày hành quân hy vọng đến trạm sẽ được nghỉ ngơi nhưng nó đã tắt ngấm ngay lúc giao liên phổ biến là phải đi 30 phút mới có nước.
Vậy là họ phải đánh vật với bữa cơm, Trong khi đó, vừa mắc tăng, mắc võng xong thì Trọng và Liên lên cơn sốt. Mai, Hồng lo chuẩn bị củi nấu cơm. Trách nhiệm đi lấy nước thuộc về Nga và Hương… Còn Hội anh đã tách khỏi đòi từ khi gặp ba cậu đặc công khiến các cô gái thở phào nhẹ nhõm. Anh chàng quay phim ấy gây cho các cô gái không ít khó khăn. Nhưng cái đáng nói hơn là anh luôn làm cho các cô khó chịu và mệt mỏi. Thậm chí xấu hổ… Cô còn nhớ rất rõ bữa ăn mới đây ở một trạm giao liên.
Họ ăn cơm với đoàn các em từ miền Nam ra. Em lớn nhất 15 tuổi, trưởng đoàn. Hương suýt nghẹn miếng cơm nhìn ba em chỉ còn bốn tay ăn cơm ở một bàn bên cạnh. Một em phổi còn mảnh bom và nhiều vế thương tren người chưa lành.
Hội ngồi cùng bàn với các em. Chẳng biết Hội ăn uống ra sao đó mà em bé 15 tuổi, trưởng đoàn, trông đã có vẻ là một cô gái, người duy nhất còn nguyên hai tay hỏi anh:
- Chú đói lắm à?
Hội gật đầu như một cái máy.
Cô bé nhìn hăng gô Hội, rồi quay sang nhìn các bạn mình. Hai đứa khác đã có ý tứ buông đũa. Cô bé đẩy thau cơm về phía Hội:
- Chú ăn đi, bọn cháu no rồi.
Hội ngần ngừ. Nhưng rồi quả quyết xúc cơm ăn. Anh ăn như chưa từng được ăn bao giờ khiến các cô gái ở bàn bên này đều phải ngượng ngập cúi mặt xuống. Ăn xong, anh buông đũa:
- Cám ơn các cháu nhé. Lâu lắm chú mới được một bữa no. À, các cháu có bột ngọt không?
Cô bé gật đầu, giở cái túi bên người ra. Hội xua tay:
- Thôi, chú hỏi thế thôi. Chú không lấy đâu. Các cháu giữ lấy mà dùng.
Cô bé cười:
- Bọn cháu sắp ra chỗ xung sướng rồi, còn các chú đi vào gian khổ. Chú đưa tay đây.
Hội có vẻ miễn cưỡng đưa bàn tay ra:
- Trời ơi, các thứ này ở ngoài Bắc đâu có các cháu. Nhưng mà này ra ngoài ấy dáng chịu đựng gian khổ. Không sướng đâu. An dưỡng cho khoẻ rồi về. Chú đã chịu đựng mấy chục năm ở ngoài đó, chú biết.
Hương giận sôi lên. Nhưng cô thấy nghẹn ở cổ họng, không nói được. Nỗi giận dữ ấy có dịp bùng lên lúc vừa ra khỏi đường dây xã hội chủ nghĩa, bắt đầu đường dây giải phóng. Hội lặng lẽ cởi bộ quần áo bộ đội trước mặt cả đoàn, thay bộ quần áo bà ba đen chẳng biết kiếm ở đâu ra. Anh ném bộ quân phục lên một cành cây và quay về phía đường dây xã hội chủ nghĩa vái dài ba cái. Đấy là lần đầu tiên co gái nổi tiếng là điềm đạm ấy nổi xung lên. Cô chỉ tay vào mặt Hội:
- Anh là đồ ăn cháo đái bát. Hiểu chưa?
Hội xấu hổ bước tới:
- Cô nói gì, nói lại tôi nghe nào?
Có lẽ Trọng cũng chỉ chờ có thế. Anh nhảy phát lại phía Hội, khiến anh chàng hoảng sợ vừa xua tay lia lịa vừa đi giật lùi. Người ta nói những người lành hay cục tính, có lẽ thế thật. Mắt Trọng đỏ sọc như mắt con trâu điên. Nếu không có đám bộ đội thu dung thì hôm ấy anh chàng Hội chắc chắn đã bị một trận nhừ đòn.
Con suối nước trong vắt đến phát thèm nhưng Hương không dám tắm. Nga cũng lưỡng lự. Hôm trước anh Trọng vừa xuống tăm lên là cơn sốt ập đến ngay. Anh ấy đã kiệt sức sau cuộc chạy thi tai ác kia.
Hương bỗng thấy giận mấy tay ở trạm giao liên.
Cô chẳng hiểu họ tổ chức lễ lạt hay mừng công gì đó. Có điều họ mời khách tham dự. Trong những trò mà họ nghĩ ra có trò chạy thi.
Những người sốt rét chạy thi. Mới nghe qua Hương tưởng là chuyện bịa. Mang thân mình chưa xong còn thi thố nỗi gì. Nhưng đó lại là chuyện thật. Người đăng ký tham gia cũng đông vì nghe đâu có được 1,2 lạng thịt bồi dưỡng và người đoạt giải nhất sẽ được nửa ký đường. Trọng cũng đăng ký tham gia mặc dù các cô gái hết sức ngăn cản. Hương biết anh hy vọng sẽ kiếm cho các cô ít đường bồi dưỡng vì gần hai tháng nay các cô chưa biết mùi đường là gì. Họ đã không ngăn được anh.
May thay Trọng giành được giải nhất. Nhưng về được tới đích thì anh xỉu đi. Tối hôm đó họ nấu một nồi chè to. Nhưng Trọng vừa ăn được một chén thì ói sạch, cơn sốt đã bóc sạch sức lực cuối cùng của anh. Đấy là lần đầu tiên trong cuộc đời Hương thấy nòi chè ngọt lừ thoắt có vị đắng…
Tiếng Nga kêu thét lên làm Hương sực tỉnh:
- Hương, rắn.
Hương lạnh người. Cô đứng chết lặng bên bờ suối, phía ven bụi cây một con rắn dài khoảng một mét, thân xanh lét đang lè lưỡi từ từ bò đi. Cô thấy chân tóc mình dựng đứng lên. Rắn lục. Hôm qua ở chi 6 có người bị tháo khớp chân vì bị rắn nục cắn. May sao con rắn không để ý đến hai người. Lát sau nó đã mất hút sau bụi cây. Nga thở phào:
- Nó đi rồi, may quá. Thôi bây giờ cậu xuống lấy nước nhé. Mình đi chặt cây.
Hương xắn quần lộ xuống suối. Nước ngập đến đầu gối. Đầu tiên cô lấy nước vào bi đông và các hăng gô. Sau đó cô buộc tấm ni lông thành một cái bọc. Lúc ấy Nga đã chặt được cái đòn mang về. Họ cột chặt bọc ni lông nước vào cái đòn.
Mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Nửa tiếng sau họ mới đưa được nước về đến nhà. Nga và Hồng đã sắp sẵn gạo củi. Chỉ còn cách bếp 5 phút bỗng Nga vấp phải một gốc cây chúi người đi. Cái đòn từ vai cô văng ra, ném luôn cả khiêng nước xuống đất. Các cô gái xúm lại. Nhưng họ chỉ cứu được mấy hăng gô. Cái bịch ni lông nước đã vỡ. Nước chảy tung toé trên nền đất khô. Nga nhìn bịch nước từ từ xẹp đi. Bất lực. Cô đứng thần người một lúc, nước mắt ứa ra. Rồi không hiểu nghĩ thế nào, cô chạy nhanh về võng lấy một tấm ni lông khác, xăm xăm bước xuống suối, mặc cho Hương vừa tong tả chạy theo vừa gọi:
- Nga, đợi nào. Cẩn thận đấy.
IX
Hội nằm tòng teo trên võng phì phèo điếu thuốc Ara. Vạy kà anh đã đến được đường dây giải phóng. Anh đã sống. Chỉ còn không lâu nữa là anh sẽ vào tới “ ông cụ”, anh sẽ xuống chiến trường, anh sẽ ghi lại những thước phim nóng bỏng phải làm mọi người trầm trồ thán phục, danh tiếng anh sẽ nổi lên như cồn, sẽ…
Cái chữ sẽ ấy ngày càng ngọt ngào trong dư vị suy nghĩ của anh. Đã qua hẳn những ngày quằn quại vì miếng ăn, quả thực có làm anh nhỏ bé đi chút ít. Nhưng là sự nhỏ bé có ích cho phép anh tồn tại đến bây giờ. Và lúc này anh lại lớn vụt lên cao. Dấu hiệu lớn cao ấy đầu tiên được thể hiện ở chỗ, anh giải tán đoàn thu dung và chia tay ba chiến sĩ đặc công. Với lý do là những việc như thế trong điều kiện này là không chấp nhận được. Các cậu lính trẻ ngạc nhiên. Làm sao các cậu hiểu được nguyên nhân sâu sa của quyết định ấy. Giữa anh và họ bây giờ đã cách xa nhau. Anh là nghệ sĩ còn các cậu chỉ là lính tép riu. Anh được phụ cấp 110 ria cò các cậu chỉ có 35 ria. Hình như cái ý thức về sở hữu lúc nào đó phai nhạt đi lại sừng sững trở về. Vì vậy mà lời hứa “ sẽ bao các cậu một chầu” khi vào đường dây giải phóng anh đã quên béng đi mất.
Họ lặng lẽ chia tay nhau.
Các cậu lính trẻ nhìn theo cái bóng dáng cao kều như một con dọc thành tinh của anh và lắc đầu vì không sao cắt nghĩa được.
Nhưng Hội thấy ngay mình sai lầm. Anh đã qua cầu rút ván quá sớm. Không có các cậu lính trẻ, anh đi đứng vất vả và khó khăn hơn. Không giống như sự lạc quan của anh, con đường giao liên vẫn xa vời vời và khó khăn. Vấn đề bây giờ là không phải không có cái gì ăn nữa mà lại là không ăn được. Dạo này anh sốt rét luôn. Ai sẽ cơm nước cho anh? Ai sẽ đưa anh vào viện? Anh lại thấy cái đáng sợ của sự cô độc. Nhưng đi với các cậu lính trẻ thì anh không muốn. Đấy là lý do anh quay lại đoàn thu dung của Trọng đã mấy ngày nay. Nhất là khi hy vọng được đi cơ giới của anh sụp đổ như một ngôi nhà trên cát.
Hoá ra đường đồng bằng cũng chẳng đơn giản hơn đường leo núi. Cái này nhiều sông suối đến mức làm Hội ngạc nhiên. Ngày hôm nay đếm trên đầu ngón tay Hội đã thấy mình đi qua 19 cái cầu lớn nhỏ. Suốt 8 tiếng đồng hồ phơi mình trên những trảng dầu năng như đổ lửa, người Hội lả đi. Bi đông nước đã hết sạch càng khiến cổ họng anh rát khô như phải bỏng. Nắng như muốn vắt kiệt hết cả nước trong con người anh. Vắt kiệt luôn cả cái dư vị ngọt ngào cà thơi thới trong tâm hồn mà anh đã từng vẽ ra, thiêu rụi nó trong lửa đỏ. Hội thấy kiệt sức.
May mắn là đoạn cuối con đường mát hơn vì đi qua những rừng chồi và sau đó là chè đậu xanh có pha đôi chút va ni của các cô gái làm anh tỉnh lại.
Đêm ấy giấc ngủ đến với anh một cách khó nhọc và đầy mộng mị.
*
* *
Đang thiu thiu ngủ, Trọng chợt nghe tiếng ì ì nặng nề rất xa. Anh hốt hoảng la lên:
Các cô gái vừa lăn khỏi võng thì một trận mưa bom ầm ầm ụp đến xé toạc không gian. Ngớt một loạt, mười phút sau lại một loạt, rồi loạt nữa. Mùi bom cháy khét lẹt. Mảnh bom và đất đá rào rào rơi xuống như mưa. Đất rung chuyển. Đêm đang sáng trăng bỗng tối sầm lại vì khói và bụi đất do bom hất lên đen đặc một vùng trời. May mắn là đợt bom cách xa chỗ trú quân.
Chờ cho tiếng bom ngớt, Trọng phủi quần áo đứng dậy. Anh chạy đến võng của từng cô. Nguyên vẹn cả. Anh động viên:
- Các cô đừng sợ. Nó ném bom cũng như cò ỉa miệng trai thôi. Ném chưa chắc đã trúng. Trúng chưa chắc đã chết. Nhưng hãy cảnh giác. Nghe tiếng máy bay là lập tức nhảy xuống hầm liền.
Nói là nói thế thôi. Trọng cũng biết khó có ai có thể kịp nhảy xuống hầm ngay sau đợt B52 đầu tiên. Có khi xuống hầm lại chết còn không thì lại chẳng sao. Ngay như anh sau loạt bom đầu tiên mới chỉ kịp lăn xuống đất chứ đâu đã kịp xuống miệng hầm. Vấn đề là nó ném có chúng hay không. Nếu trúng hôm nay cả đoàn anh bảo đảm không con một người sống sót.
Tự nhiên, Trọng thấy mừng. Cho đến hôm nay, cho dù vất vả, anh vẫn chưa bỏ rơi ai. Với người chỉ huy thì đó là phần thưởng quý giá nhất. Nỗi mừng ấy càng nhân lên khi anh biết rằng luồng bom vừa rồi đã đi sát nơi anh đóng quân ban chiều, ngay bơ suối, chỉ cách có 30 mét. Họ đã thoát chết một cách tình cờ. Bây giờ nghĩ lại anh còn toát mồ hôi hột. Giá như lúc ấy anh không cho cả đoàn chuyển lên đây…
Con đường anh tơi đích tuy còn gian nan nhưng không phải là con đường vô tận nữa. Anh nghĩ đến bao nhiêu người đã nằm lại dọc đường. Họ ngã vào lòng đất với trái tim trai trẻ và mang theo lẽ đời đơn giản: hy sinh vì Tổ quốc. Họ ngã xuống có người chưa kịp biết là cái chết của mình có ích. Rồi anh bực bội vì dường như cái từ hy sinh ấy chưa nói được gì so với tất cả những điều mà người lính đã trải qua. Anh có cảm giác là con đường đi của anh không thể đo bằng chiều dài của cây số đơn thuần mà phải đo bằng chiều dài của hàng chục cuộc đời.
Với tâm trạng nặng nề như vậy, Trọng đi về phía tăng mình. Ý nghĩ ấy cũng khiến anh những ngày ngần đây bớt ác cảm với Hội hơn. Nhưng anh không thể đối xử bình thường với Hội được. Con người không biết hy sinh cái nhỏ thì làm sao có thể đương đầu với những hy sinh lớn hơn? Nhất là khi phải đứng trước một quyết định trọng đại: hy sinh cuộc sống?
Chưa kịp về võng thì Trọng dừng lại. Anh chợt nhớ đến cái chân không dép của Liên. Mấy ngày nay cô gái ấy điêu đứng vì mất dép đến nỗi các cô gái phải luôn chuyển nhau đổi dép cho cô.
Ý nghĩ phải kiếm cho ra một đôi dép thúc giục Trọng đi về hướng trạm. Chiều nay anh gặp một người đồng hương cùng làng. Máy ra có thể nhờ anh ta giúp cho được việc này chăng?
*
* *
Anh chàng kỹ sư cơ khí ấy nhút nhát một cách kỳ lạ. Tính nhút nhát của anh luôn luôn bị các cô gái đưa ra làm trò đùa. Nhưng người mà anh sợ nhất, và nói cho công bằng, có phần hơi ghét, là Nga. Song thói đời, ghét của nào trời trao của ấy. Chưa đầy ba tháng quen nhau, cái phong vũ biểu tình cảm của chàng kỹ sư đã quay ngược 1800 khiến cả xí nghiệp kinh hoàng. Sự thay đổi cung bậc tình cảm ấy đã dấn đến một mối tình tay ba và kết quả phần thắng đã nghiêng về Vũ.
Hình như tình yêu có sức mạnh thay đổi tính cách con người. Người ta thấy Vũ cứng rắn ra và mạnh bạo hăn lên còn Nga thì mềm xuống. Nó đánh thức dậy những bản tính phụ nữ trong cô tưởng như đã bị thui chột trong cuộc sống nặng nhọc với những công việc đúng ra chỉ dành cho nam giới và trong một môi trường gần như hoàn toàn không cần đến sự mềm dẻo của giới tính.
Nhưng như nhiều người phụ nữ khác trong chiến tranh, cô không được hưởng hạnh phúc. Nửa tháng trước khi cưới anh lên đường khám nghĩa vụ. Họ chỉ sống với nhau với tư cách vợ chồng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ. 25 tuổi cô đã khoác lên đầu mình khăn tang. Niềm vui làm vợ chưa kịp nẩy lộc đâm hoa đã bị nỗi đau goá phụ phũ phàng cướp mất.
Tuổi nữ sinh của cô, cũng giống như khá nhiều các cô gái viễn cảnh của cuộc đời đang rộng mở, thường ôm ấp một mẫu người con trai lý tưởng. Về hình thức thì cao ráo, đẹp trai. Về nội dung thì mạnh mẽ, nhân hậu, phóng khoáng, có chút học thức thì càng tốt. Nhưng cuộc sống vốn oái oăm… Người đạt tiêu chuẩn về hình thức thì khiếm khuyết về nội dung và ngược lại. Chẳng có người con trai nào bỏ vừa cái ô mà các cô đã đặt ra. Vì vậy tiêu chuẩn cứ hạ thấp dần. Thực ra, đó chỉ là quá trình điều chỉnh cho lý tưởng phù hợp với thực tế.
Với Nga cũng vậy. Vũ không hẳn đã hoàn toàn như mẫu người lý tưởng mà cô đặt ra. Nhưng điều ấy không ngăn cản tình yêu của cô đối với anh. Tình yêu sâu sắc đến đâu, cô chưa kiểm chứng được, nếu không có cái giây phút hãi hùng mà cô đã gặp phải và không bao giờ quên được. Nó ập đến, cấu xé khiến có lúc cô không muốn sống nữa.
Tất nhiên, mọi vết thương đều phải lên da non. Nhưng với Nga nỗi đau không mất đi, nó trở thành cái nhột bọc trong tâm hồn. Nó như ngọn lửa vùi trong than chỉ cần có gió là bùng cháy. Và nó lại bùng cháy. Mạnh mẽ, khốc liệt hơn lúc cô nhận được cái tang thứ hai: Anh trai cô đã hy sinh trong chiến dịch Đường 9 Nam Lào.
Nỗi đau ấy đã đưa cô đi. Nhưng giờ đây cô thấy nó thật nhỏ bé, gionogs như giọt nước trong biển cả hy sinh lớn lai của toàn dân tộc…
Nga dừng lại lấy dao găm chặt một cái cây gậy le.
Đang đi nắng, chui vào rừng le, cô có cảm giác như mình được lên thiên đường. Bóng le trùm lên đường mòn mát rượi. Đến bây giờ Nga mới biết cây le. Cũng là họ nhà tre, nhưng to hơn, mộc mạc, khắc khổ và rắn rỏi hơn trucs, cái rắn rỏi không có gì có thể bóp nát được. Từng bụi le nói tiếp kết vào nhau cuốn thành vòm như những cái mái cuốn rất đẹp. Mùa khô le rụng trụi lá, nhưng mùa mưa nó sẽ nảy chồi. Nhìn thân câ le gầy gò, khó ai có thể biết sức sống của nó mạnh mẽ đến thế.
Chiếc gậy le hoá ra cứng thật. Nga ngạc nhiên. Cái thân cây chỉ bằng ống sậy không hiểu được cấu tạo ra sao mà cứng cáp dẻo dai như thế? Hình như ở Trường Sơn này cái gì cũng đặc biệt hơn. Và do vậy đòi hỏi con người phải qua nó phải có tầm vóc lớn hơn.
Sáng nay Nga vừa đi qua một sóc Khơ Me. Có vẻ trù phú hơn những bản Lào mà cô đi qua. Nhà nào cũng có hàng chục trâu bò. Có nhà có hàng trăm con. Cô tò mò ngắm nhìn một thứ cây lạ mà người ta bảo là cây thốt nốt. Nghe nói nước thốt nốt dùng làm đường, uống rất ngọt. Cây thốt nốt cao như cây dừa. Có khi hơn, lá xoè rộng, xanh biếc, bẹ vàng óng. Người Khơ Me giản dị và nhân hậu. Dân ở đây kúc đầu rất sợ giải phóng Việt Nam. Nhưng dần dà họ yêu và tin.
Niềm tin có lúc hơi gây thơ. Năm ngoái ở đây nghe nói xảy ra một câu chuyện thế này: Có một đồng chí giải phóng đi công tác qua đây đúng vào lúc máy bay địch rà sát bờ sông. Anh nhảy sang một hiếc hầm ven đường. Lúc ấy anh thấy có một cô gái Khơ Me hốt hoảng tìm nơi trú ẩn. Đồng chí giải phóng kéo cô ta xuống hầm. Nhưng vì hầm rất chật nên anh phải nhường chỗ cho cô gái, còn anh thì chạy lên trú ở bụi cây. Cô lặng lẽ bò lên nằm sat bên anh giải phóng. Đồng chí giải phóng nhăn mặt:
- Trời ơi sao cô không ở dưới hầm.
- Giải phóng có phép không chết. Mình theo giải phóng, mình không muốn chết.
Không chết. Nga cười buồn. Giá như cô ấy nhìn thấy đồng đội của mình nhỉ. Thôi cầu mong cho cô ấy đừng nhìn thấy làm gì. Con người ta ai không sợ chết và chẳng ai muốn chết. Nhưng chiến tranh bao giờ cũng là một vòng luẩn quẩn. Chính vì không muốn chết người ta lại sẵn sàng lao vào cái chết. Có điều đó là sự hy sinh bộ phận cho sự sống còn của cái toàn thể. Thế thôi.
Nga bỗng thấy đau nhói ở dưới chân. Cô giơ chiếc dép làm bằng bao gạo lên. Nó đã xơ ra hết cả. Mặc dù các cô đã khâu nó bằng mấy lần vải. Thậm chí cắt cả một miếng vải ở túi ba lô. Từ chỗ rách lòi ra những khoảng gan bàn chân nứt nẻ. Từ khi Liên mất một chiếc dép, họ phải thay nhau đi chân không. Để Liên chịu một mình thì không nỡ. Nhưng kiếm thêm một chiếc dép nữa thì chưa tìm được. Mặc dù Trọng đã hết sức cố gắng.
Thấy Nga ngồi bệt xuống đường, giơ cái chân lên suýt xoa, Hương dấn lên:
- Cậu đau hả? Đưa mình thay cho.
Nga cười:
- Không sao, hết rồi. Con nhà nghèo dẫm phải gai ấy mà.
- Gai gì, không được đâu. Trông chân cậu nứt toác ra như mặt ruộng đại hạn kia kìa.
Nga gắt:
- Còn chân cậu thì hơn phải không?
- Không hơn, nhưng…
Nga qủa quyết:
- Không có nhưng nhị gì hết. Dẫu sao thì chaan mình cũng cứng cáp hơn chân cậu nhiều. Cậu biết ngày xưa chân của các cô gái như cậu được các thi sĩ gọi là gót gì không? Gót sen. Giáng giữ lấy nó. “ Bộ bộ sinh liên hoa” kia mà.
Hương cáu:
- Còn gót chân của cậu?
Nga nháy mắt:
- Gót sắt, tiểu thư ạ. Hoa vào lửa thì tàn chứ sắt vào lửa càng cứng.
- Cậu được cái tếu thì không ai bằng.
- Tếu gì, mình nói thật đấy. Này nhé. Cậu có nhớ hôm qua mình gặp cô gái Khơ Me không? Cái cô trở cái bao gạo một tạ ấy. Cậu có thấy lúc cô ấy xuống dốc, xe không phanh nhé. Cô ấy dùng gót chân đạp vào bánh xe làm phanh. Mình muốn luyện đôi chân như thế. Chân càng cứng thì đá càng mềm.
Hương phì cười:
- Thì cậu luyện. Nhưng mình hy vọng là nó không thành công.
- Sao thế?
- Vì nếu thành công thì tai hoạ lắm. Đổ cửa đổ nhà như chơi. Dưới những bước chân như thế thì làm gì có thứ vật liệu nào trên thế giới này chịu nổi. Cậu sẽ xéo chết cả chồng lẫn con thôi. May là bây giờ chưa tu luyện thành công quả. Mình nói thật đấy, đưa mình đi cho.
Nga lắc đầu:
- Thôi mà. Cậu mặc mình. Không còn bao nhiêu đường nữa đâu. Ngày mai sẽ đến phần cậu, lo gì. Chỉ có hạnh phúc mơi là chiếc chăn hẹp còn gian khổ luôn luôn là chiếc chăn rộng. Cậu đừng sợ mất phần!
Nga đứng dậy. Lúc ấy Trọng đã bước đến sau lưng cô:
- Sao thế?
Hương quay sang anh:
- Chân Nga đau. Em đòi đổi dép. Chị ấy không chịu.
- Khổ lắm. Tôi đã bảo lấy dép tôi mà đi sao các cô không nghe?
Nga cười:
- Nhưng bố em không…
- Lại bố cô bảo chứ gì. Nhưng bố cô bảo không bằng cuộc sống nó bảo.
Nga ranh mãnh:
- Bố em có bảo gì đâu, nhưng chỉ có bố em mới đi vừa dép của anh thôi. Nó rộng như cái thuyền thế kia mà.
Trọng đỏ mặt:
- Thôi được rồi. Cô đưa cái chân tôi xem nào.
Nga đưa chân lên – Cô hỏi:
- Anh thấy có đúng là gót sen không nào?
Trọng cười hiền lành:
- Cô thì lúc nào cũng đùa. Bây giờ nghĩ đã. Rồi cô cắt lấy một miếng ba lô lót tạm mà đi. Tôi đã có giấy giới thiệu vào kho quân nhu. Mai các cô sẽ có dép mới.
Họ đặt ba lô xuống. Trọng rút dép ra ngồi. Láy sau Mai, Liên, Hồng cũng tới. Họ ngồi xung quanh Trọng.
Trọng ngồi im lặng hút thuốc. Trong khi đó thì các cô gái vẫn rúc rích cười đùa. Anh không nói nhưng vui lây vì niềm vui nho nhỏ của họ. Nó làm dịu đi những gian khổ và cay đắng. Nó là bạn đồng hành của nghị lực và sức mạnh. Cho đến bây giờ Trọng vẫn không tưởng tượng được là các cô gái sẽ đi đứng thế nào nếu thiếu đi những tiếng cười ấy.
Nhưng tiếng cười không hẳn đã làm vui lòng tất cả mọi người. Trọng nhớ có lần anh đi cùng với một đồng chí cán bộ đã có tuổi. Một hôm ông ấy cau có phàn nàn với anh:
- Cậu phải nói với mấy đứa con gái ở đoàn cậu đi chứ. Mở mắt ra là đã thấy chúng nó cười. Đi Trường Sơn chứ có phải đi dạo mát đâu. Chúng nó sung sướng gì mà cười lắm thế không biết.
Trọng nhẹ nhàng:
- Thì chúng nó còn trẻ mà anh. Tuổi trẻ ai chẳng thế. Nhịn ăn thì được chứ nhìn cười làm sao được. Người ta chỉ cười khi vui. Mà đã vui thì khoẻ, hăng hái. Không lẽ anh lại mong các cô ấy khóc hay sao?
Ông già làu bầu:
- Nhưng cái gì cũng có mức độ thôi chứ.
- Tôi nghĩ tiếng cười không cần mức độ. Tôi nghe mấy anh Nam Bộ hay nói: Chơi hết mình và làm cũng hết mình. Tôi nghĩ vui cũng cần phải hết mình.
Ông già bực bội:
- Nhưng cậu biết là bọn Mỹ nó có rải máy thu tiếng động, hiểu không?
Hoá ra ông ta sợ máy thu tiếng động của bọn Mỹ. Anh cười không nói gì nhưng bụng nghĩ thì cứ cho chúng nó thu, đã sao. Biết đâu nghe tiếng cười ấy bọn giặc lái Mỹ lại mất tinh thần cũng không chừng. Hơi đâu mà sợ.
Chợt Trọng nghe thấy tiếng Liên:
- Anh Trọng này…
Trọng quay lại:
- Cô hỏi gì?
- Khi nào xuống nơi tập kết là anh xuống đơn vị ngay à?
Trọng gật đầu:
- Phải đi ngay chứ! Các cô không thấy là mùa khô đã đến rồi à? Phải về để chuẩn bị cho kịp những chiến dịch mùa khô.
Liên có vẻ hơi buồn:
- Vậy làm sao bọn em liên hệ được với anh?
Trọng tần ngần:
- Thì các cô để địa chỉ lại cho tôi.
Hương xen vào:
- Nhưng bọn em đã có địa chỉ ngay đâu. Phải vào cơ quan mới biết chứ.
Hồng trầm tư:
- Đúng thế thật. Vậy làm sao nhỉ? Chiến trường rộng lắm.
Không khí chợt lặng xuống. Nhuốm buồn. Hình như nghĩ đến sự chia tay mà khó hy vọng gì gặp lại. Con người bao giờ cũng thế.
Trọng phá tan sự im lặng:
- Rồi chúng ta sẽ tìm cách. Đúng không nào. Chẳng có cái gì không làm được cả. Chỉ có điều người ta có muốn làm hay không. Nhất định tôi sẽ tìm được các cô. Chỉ sơm hay muộn thôi…
Nga buồn buồn:
- Nhưng anh sẽ không quên chúng em chứ?
Trọng lặng im một phút:
- Có những cái có thể quên có những cái không bao giờ quên được. Bởi vì sự lãng quên ấy đồng nghĩa với sự phản bội. Cũng có thể tôi sẽ không tìm được các cô. Cũng có thể có người trong chúng ta sẽ ngã xuống. Trong trường hợp ấy chúng ta hẹn ngày chiến thắng vậy. Tất cả những ai còn sống hãy nhớ lấy điều này: Hãy tìm đến nhau ở bờ Hồ Hoàn Kiếm đúng vào ngày kỷ niệm đi B của chúng ta ngày 15 – 4.
X
Không ngờ sự việc lại diễn ra đúng như vậy.
Buổi sáng họ còn ăn cơm với nhau. Thậm chí cô con gái tinh nghịch này còn vừa gắp vào gô cơm anh một miếng thịt vừa cười vừa tuyên bố với tất cả các cô gái rằng sau chiến tranh có thể cô sẽ cưới anh làm chồng, và nếu muốn thì cô chỉ có nhường anh cho Liên, khiến anh không biết chui mặt vào đâu cho đỡ ngượng. Còn các cô gái thì vừa cười ré lên vừa chí choé đấm lưng nhau.
Hương bụm miệng ra vẻ gây thơ:
- Nhưng ít nhất cá cậu cũng phải biết anh Trọng chọn ai đã chứ?
Mai cũng cười:
- Tất nhiên là không phải cậu rồi. Phải không, anh Trọng.
Hồng nói:
- Các cậu đừng làm anh ấy mấy tinh thần. Trong tình yêu phải bình tĩnh xét đoán mới được. Anh Trọng anh tuyên bố điều gì đi chứ?
Trọng ngượng ngập:
- Các cô đòi tôi tuyên bố điều gì bây giờ?
Hồng tủm tỉm cười:
-Ví dụ như anh tuyên bố chọn…em chẳng hạn. Nga cười sằng sặc:
– A, hoá ra hòn đất ném lên Trường Sơn ba ngày cũng biết nói các cậu ạ. Nhưng đừng tin nó anh Trọng. Sự thật không phả ở chỗ nhiều lời đâu. Sự thật ở đây này. Nó luôn giấu mặt.
Nga quay sang chỉ Liên lúc ấy đâng đứng thần mặt ra., miệng dở cười dở mếu.
Mai reo lên:
- Vậy là bắt quả tang rồi. Cháy nhà mới ra mặt chuột. Hết đường chối cãi nhé.
Mọi người cười ầm lên còn Liên thì la hét ầm ĩ và bỏ chạy vào rừng.
Hôm ấy họ hành quân muộn hơn thường lệ.
Lâu lâu trời khô, nắng, đêm qua lại có cơn mưa. Mưa ở đây cũng có sấm chớp đùng đùng chứ không yên ắng và buồn tẻ như ở rừng Lào. Cơn mưa rừng Khơ Me dữ tợn quá, tưởng như không bao giờ chút hết nước.
Cơn mưa làm cho khí trời mát lại.
Con đường không dài nhưng có lúc họ phải đi qua nhiều trảng cỏ trống trơn. Cỏ xanh rờn như trải thảm. Lác đác đây đó những cây dầu lá to bằng cánh quạt cao vút lên nền trời.
Đi một mạch đến hơn 9 giờ mới dừng lại.
Cảnh tượng chỗ nghĩ mới nhìn thấy ớn. Hai bên đường là những hố bom sâu hoắm, lở lói. Đất đỏ tung toé khắp nơi. Cây cối đổ ngổn ngang, xơ xác. Hình như trận bom B52 này giặc nén cũng chưa lâu. Nhìn màu đất còn mới. Trọng đoán như thế.
Nghỉ 15 phút, hojlaij chuẩn bị đi. Trước khi tiếp tục hành quân, giao liên phổ biến kế hoạch vượt lộ. Đây là một trong những trọng điểm địch thường ném bom bán phá. Giao liên phổ biến quá đơn giản. Trọng muốn hỏi thêm. Ác thay, giao liên lại là một anh điếc, chỉ biết nói chứ không biết nghe. Được biết anh bị sức ép bom nên bị hỏng hai tai. Sự phổ biêế không rạch ròi lắm của người giao liên làm Trọng hơi coi thường và anh đã phải trả giá.
*
* *
Con đường mà các anh phải vượt qua hình như cách đây ít lâu vừa xảy ra chiến sự. Xác xe tăng giặc còn nằm cong queo, han rỉ rải rác đây đó. Hai bên lộ là hai cái trảng lớn rộng ngút mắt và trống trơn chỉ có vài ba bóng cây. Trọng ước tính vượt qua trảng đến cửa rừng bên kia cũng phải mấy 20 phút. Anh nhắc các cô gái chỉnh đốn giầy dép để chuẩn bị chạy. Anh ái ngại nhìn đôi dép của Liên.
Bây giờ các cô kiểm tra kỹ lại đi. Phải vắt chân lên cổ mà chạy đấy nhé. Càng vượt nhanh khỏi đây càng đỡ nguy hiểm.
Trọng chạy theo giao liên phía trước. Các cô gái chạy sau. Nhưng Trọng không ngờ là nỗi nguy hiểm lại ập nhanh đến thế.
Họ vừa vượt qua lộ thì hai chiếc OV10 vè vè bay lên. Bây giờ mà chạy thì thí mạng cho cọp. Trọng hét lên:
- Nằm xuống.
Các cô gái nằm bẹp xuống trảng trống. Trọng cũng nằm im nhưng mắt không ngừng theo dõi chiếc hai thân. Đột nhiên, Trọng thấy nó tắt máy, lao xuống. Trọng lanhj người. Chết rồi, nó bắn trái điểm. Trọng nhổm dậy:
- Chạy.
Các cô gái vùng dậy theo anh.
Nhưng họ không chạy được xa. Có lẽ không đầy 5 phút sau, một tốp máy bay phản lực ập đến. Trọng chỉ kịp lăn mình xuống trảng trống thì đã thấy mặt đất rung lên. Cây cối bụi đất mù mịt. Trọng nằm úp mặt mà có cảm giác như nhìn thấy rõ cả những trái bom đen trùi trũi rơi xuống. Trọng muốn chạy tìm các cô gái nhưng anh không thể ngẩng mặt lên được.
Khi loạt bom vừa rứt, cái phản xạ đầu tiên của anh là lập tức vùng dậy. Các cô gái cũng lục tục bò dậy. Nhưng Trọng nhìn mãi không thấy bóng Nga đâu. Anh hốt hoảng kêu lên:
Các cô gái cũng định thần lại. Họ lo sợ nhìn nhau:
- Nga đâu?
Họ chạy túa ra xung quanh. Cách đó 20 mét, họ tìm thấy Nga nằm bất động bên cạnh một hố bom sâu hoắm. Chiếc ba lô nằm trên lưng bị thủng một miếng gọn như có ai dùng dao khoét đi. Lật ba lô Nga lên, Trọng thấy máu đã ướt đẫm lưng áo cô. Trọng chợt hiểu. Một mảnh bom đã xuyên qua ba lô cắm thẳng vào lưng.
Trọng kêu lên:
- Đưa băng đây, các cô
Hồng run rẩy đưa tay mở ba lô. Nhưng cô lúng túng không mở được. Hương cũng vậy.
- Bình tĩnh nào. Bình tĩnh, cô ấy chưa chết được đâu. Đưa cả mấy quấn băng đây. Máu ra nhiều quá.
Trọng nâng cô dậy. Anh phải tự băng cho Nga. Hồng không giúp được gì cho anh. Bàn tay cô y sĩ cứ run bắn lên như người bị sốt rét. Nga mấp máy đôi môi một cách khó nhọc. Trọng khẽ:
- Có đau không?
Nga liếm môi gật đầu. Cô cố nở một nụ cười làm Trọng yên lòng. Đôi một nhợt nhạt của cô khẽ hé mở ra. Trọng nuốt nước bọt khan. Anh cảm thấy nụ cười ấy giống như ánh nắng buổi chiều sắp tắt.
Anh giao liên lãng tai đã quay trở lại tự khi nào. Trọng thấy tràn ngập một nỗi giận giữ vô cớ. Giận anh giao liên và sau đó giận mình. Người anh run lên một lúc lâu. Tiếng người giao liên đưa anh trở lại thực tại:
- Để tôi đi làm cáng. Anh chuẩn bị gấp đi. Phải đưa ngay cô ấy vào bệnh viện may ra mới kịp.
*
* *
Căn phòng của Nga ở khu tập thể chỉ có 16 mứt vuông nhưng luôn luôn đầy nghẹn khách khứa, nhất là lúc cô yêu Vũ. Các cụ bảo rộng bụng còn hơn rộng nhà. Có lẽ đúng thế thật. Hoá ra anh chàng kỹ sư nhút nhát ấy cũng lắm bạn bè. Họ đi tứ tung và lúc nào về công tác ở Hà Nội cũng ghé qua anh. Anh yêu họ như yêu chính bản thân mình, nhiều lúc làm Nga phát ghen lên.
Nhưng biết tính anh thế, cô không trách. Anh thường nói với Nga cuộc đời anh không thể thiếu được một trong ba điều: Sự nghiệp, tình yêu và bạn bè. Nhưng đôi lúc cô cũng nửa đùa nửa thật nói với anh rằng anh đã chia trái tim ra ba phần một cách bất công. Vì với công việc thì không bao giờ anh quên nhưng với người yêu thì anh thường hay đãng trí. Những lúc ấy anh cười. Sự đáng trí của anh đã trở thành một tính cách nhuốm màu giai thoại, được bạn bè gọi đùa là đãng trí báo học. Đang ăn dở bữa cơm anh buông đũa bát ngồi vào bàn và ngồi luôn cho đến tối. Hẹn người đến ăn cơm anh bỏ đi thư viện. Không ai giận vì họ hiểu rất rõ anh. Bởi vậy, mỗi lần có ai đó được mời ăn cơm họ đều cẩn thận dự phòng cho cái dạ dày bằng cách ăn lót dạ trước ở nhà.
Tính đãng trí ấy có lần suýt làm mối tình họ tan vỡ.
Tối hôm đó Đoàn kịch nói Trung ương biểu diễn tại Nhà Hát Lớn vở “ Chuông đồng hồ điện Krem- ly” của nhà soạn kịch Xô Viết nổi tiếng Pô – gô – đin.
Từ lâu anh đã hứa với cô là sẽ đưa cô đi xem kịch. Nhưng chưa lần nào họ đi xem. Khi thì anh đưa lý do là bận. Khi thì anh bảo chẳng có gì hay. Nhưng lần này, anh không có cớ gì từ chối. Để cho chắc chắn, Nga chủ động mua vé đưa anh từ tối hôm trước. Thực ra từ lâu anh đã có sự tính là sẽ đi xem vở kịch này.
Suốt ngày hôm đấy cô mong cho trời chóng tối. Nhưng thời gian đi chậm như rùa bò. Nói cho công bằng cô mừng vì được đi xem thì ít, mà chủ yếu là mừng được đi xem cùng với anh. Trong cả cuộc đời con gái của mình cô chưa lần nào bước chân đến rạp hát cùng với một người con trai.
Họ đi vòng bờ hồ vào quán kem Cầm Bình ăn mấy cây kem. Vậy mà đến nhà hát vẫn còn khá sớm. Nga nhanh nhảu lãnh trách nhiệm đi gửi xe.
Người đông quá nên cô gửi xe hơi lâu. Trong khi chờ đợi, Vũ tha thẩn đi xem đây đó. Thuận chân anh đi vào cừa Nhà Hát, chìa vé ra. Anh vào xem mà quên rằng có Nga đang gửi xe ở ngoài.
Gửi xe xong Nga tất tả đi ra. Nhưng Vũ đã biến đâu mất. Cô chạy quanh cửa Nhà Hát như một người điên. Hy vọng của cô ngày càng lụi đi và nó tắt hẳn khi Nhà Hát chính thức đóng cửa. Nước mắt muốn trào ra nhưng cô cố kìm. Cô lấy xe đạp như bay về nhà và úp mặt xuống gối khóc nức nở.
Trong khi đó Vũ vẫn say sưa theo dõi vở kịch. Đến đoạn tâm đắc anh thú vị quay sang ghế bên để tìm sự động tình của Nga. Nhưng ghế chống không. Vũ toát mồ hôi hột. Lúc ấy anh mới nhớ là đã bỏ quên Nga ở ngoài. Niềm vui được xem một vở kịch hay vụt tắt như bị dội một gáo nước lạnh,. Anh bỏ về và lập tức đến khu tập thể tìm Nga.
Lúc ấy Nga đang nằm trong nhà. Nghe tiếng bước chân lên cầu thang Nga biết ngay là anh. Nhưng cô nhất quyết không mở cửa. Bỏ mặc Vũ ngồi ở đầu cầu thang cho đến sáng bạch.
Nhưng Nga chỉ giận Vũ đúng một tuần…
Nga cũng hiểu sao trong giấc mơ đứt đoạn của mình cô lại nhớ về cái tính đãng trí của Vũ, người chồng đã quá cố của cô. Rồi cô thấy anh, cặp mắt kính cận lấp lánh sáng dắt tay cô bay qua những cánh rừng bạt ngàn. Họ bay mãi, bay mãi. Nhưng đột nhiên Nga nghe thấy có tiếng súng. Rồi cô thấy tay Vũ mềm oặt ra. Anh rùng mình vùn vụt rơi xuống. Nga muốn lao theo Vũ mà không được. Cô chết lặng như bị đóng đinh ở giữa trời, và chỉ kêu được một tiếng thảng thốt:
- Anh Vũ!
Tiếng kêu chỉ phát ra một tiếng rên nho nhỏ nơi cửa miệng.
Trọng ghé tai xuống tận môi cô, lắng nghe.
Anh vội ngẩng lên:
- Hình như, tỉnh rồi.
*
* *
Nga đã tỉnh lại thật, tỉnh lại một cách khó nhọc. Đầu tiên cô động đậy được đôi môi. Rồi cô thấy nóng rát trong bụng và khát nước. Nhưng cô chỉ hé được mắt ra khi cái bóng trắng toát trước mắt cô dần dần định hình thành những con người. Cùng với sự ngọ nguậy của cái giác quan, trí tuệ tê liệt của cô từ sống lại. Dần dần, cô hiểu được tình trạng mà mình đã trải qua.
Thế là hết.
Trong cái giây phút cuối cùng giữa ranh giới của sự sống và cái chết này, sao cô thấy trí tuệ của mình tỉnh táo đến thế. Tuổi đời 25 của cô vĩnh viễn chấm dứt ở đây. Cô biết rằng mình sẽ không sống nổi. Cô đã sờ mó thấy đôi cánh tay đen ngòm của thần chết. Cô sẵn sàng bước lên đôi cánh ấy ra đi một cách bình thản.
Nhưng cô tiếc là cái chết đến với cô quá sớm.
Và thật bất ngờ. Cô chưa chuẩn bị gì cho nó. Nói cho cùng thì cô đã sống một chút nào đâu. Chiến tranh rồi sẽ kết thúc, cuộc đời sẽ ra sao? Lần đầy tiên trong cô chợt nảy ra ý nghĩ rằng cuộc sống sẽ vẫn cứ tiếp diễn một cách bình thản không có cô. Cái “ tôi” của cô sẽ vĩnh viễn mất đi, không dấu vết. Cũng như mọi người, cô nhận ra rằng cuộc sống không phải dễ dàng mà có, và vì vậy không thể thờ ơ kết thúc nó.
Cô không sợ chết. Thế hệ các cô được chuẩn bị quá đầy đủ để nghĩ đến cái gì lơn hơn bản thân mình. Vì thế mà các cô đã ra đi, không băn khoăn, không tính toán. Nhưng cô không chờ đợi một cái chết bình lặng như thế này. Cái chết, cũng như cuộc sống luôn luôn phải khẳng định một cái gì đó và đồng thời phủ định một cái gì đó. Phẩm giá con người chẳng hạn. Một cái chết không phải là sự kết thúc mà là sự bắt đầu. Có lẽ chính vì vậy mà cô thèm muốn một cái chết như hàng ngàn người có lương tâm trong cuộc chiến tranh: được chết trong tư thế xả súng vào đầu lũ giặc.
Nhưng cô liệu có công bằng chăng? Bởi vì nếu cô không hứng chịu sự hy sinh thì có thể một người bàn của cô sẽ phải hứng chịu lấy nó. Các bạn cô không thể chết được. Họ còn trẻ quá và đã biết thế nào là cuộc sống đâu. Còn anh Trọng. Làm sao có thể thiếu anh trong cuộc hành quân đưa các cô tới đích. Anh ấy phải sống. Ý nghĩ ấy làm cô thấy cái chết cảu mình có ý nghĩa. Cô thều thào:
- Anh Trọng.
Trọng cúi xuống:
- Nga mệt không?
Cô gật đầu.
- Không ai việc gì chứ?
Trọng gật đầu:
- Không. Các cô ấy có cả đây này. Cô nhận ra chứ?
Nga nở một nụ cười nhợt nhạt:
- Em nhận ra.
Trọng đặt tay lên trán Nga.
- Cô yên tâm đi. Sẽ qua khỏi thôi…
Nga lắc đầu:
- Không… Em không qua nổi đâu!
- Chẳng có gì không qua nổi cả. Rồi cô sẽ đi đến nơi. Sau chiến tranh chúng ta lại gặp nhau.
Nga thở dài nặng nhọc:
- Không, em biết chứ. Em không thể nào qua khỏi được. Nhưng anh yên tâm, em không buồn đâu. Chỉ tiếc là không đi được cùng anh và các bạn đến nơi đến chốn.
Nét mặt Trọng như già đi mấy tuổi:
- Tôi có lỗi là không bảo vệ được cô. Tôi có lỗi. Tôi buồn lắm.
- Đừng buồn. Anh ạ. Không ai có lỗi cả. Sống chết là chuyện thường trong chiến tranh. Chúng ta rồi ai chẳng phải chết. Không trước thì sau. Em chỉ tiếc là không giúp gì được anh và các bạn nữa. Em chết rồi, anh lấy đôi dép của em cho Liên nhé.
Trọng lắc đầu quầy quậy.
- Sao lại thế. Cô sẽ sống. Còn đôi dép thì nhất định tôi sẽ tìm cho cô Liên. Cô đừng lo.
Tiếng sì sịt của các cô gái vọng lại, Trọng quay lại:
- Bình tĩnh nào, các cô. Hãy để cho cô ấy thanh thản một chút. Các cô ngồi xuống cả đây.
Các cô gái lặng lẽ ngồi xung quanh giường Nga đưa mắt nhìn Liên:
- Liên này.
- Gì thế Nga?
- Liên có giận mình không?
- Sao lại giận cậu?
- Vì cái chuyện ban sáng ấy.
- Không, mình không giận. Mình chỉ thương cậu thôi.
- Thật à. Nếu thương mình thì cậu giúp mình đỡ anh Trọng nhé. Anh ấy tốt lắm.
Hương nói khẽ:
- Tất cả bọn mình sẽ giúp đỡ anh ấy.
Mai:
- Cả cậu nữa chứ?
Hồng:
- Chúng mình sẽ mãi mãi ở bên cậu.
Giọng Nga đã yếu đi:
- Đừng nói gở thế. Các cậu sẽ đi đến nơi. Mình nằm lại đây. Sau này hết chiến tranh, các cậu sẽ đi tìm mình chứ?
Cả bọn khe khẽ gật đầu.
Đôi mắt hết màu của Nga khẽ hé ra:
- Các cậu thực hiện cho mình một yêu cầu được không? Sau chiến tranh, ai còn sống sẽ tìm đến mẹ mình. Mình muốn xin lỗi mẹ. Và muốn mẹ hiểu hơn những gì ghi trong tờ giấy báo tử…
Nga quay sang Trọng:
- Anh… giúp em một việc cuối cùng được chứ?
- Sao lại cuối cùng. Không đâu!
- Đừng ngắt lời em…
- Thôi được, cô nói đi.
- Sao anh không gọi em là em?
- Được, em, ừ Nga nói đi.
Giọng Nga rời rạc:
- Anh… giúp… em…tìm…mộ…anh…Vũ. Anh… ấy…ở hòm thư… Nói là em…thất…hứa với…anh ấy.
Trọng chưa kịp gật đầu Nga đã gục sang bên Trọng hốt hoảng cúi xuống:
- Nga, Nga, em…
Hình như có một sức mạnh nào đấy trong tiếng gọi khiến cho ngọn lửa sắp tàn ấy chợt loé lên một phút. Nga đờ đẫn mở mắt ra. Nhưng có lẽ cô không nhìn thấy được gì. Từ trong cặp mắt ấy những giọt nước mắt trong suốt như thuỷ tinh từ từ lăn xuống đôi gò má hõm sâu và nhợt nhạt như tàu lá vớt lên sau bao ngày ngâm nước. Trọng thấy đôi môi Nga còn mấp máy. Cô ấy trối trăng điều gì chăng. Anh ghé sát tai vào môi cô, từ đôi môi khô xác, anh nghe vẳng ra một giọng nói xa xăm yếu ớt, mà chỉ có lẽ chỉ riêng anh mới có thể lĩnh hội được.
- Em…nhớ…rồi…rồi… b…ờ h… ồ… M…ư…ờ…i L…ă…m T…h…á…n…g T…ư.
Nét mặt Trọng chết lặng như tạc bằng đá.
XI
Trọng đón nhận cái tin Hội bỏ trốn với một tâm trạng lạnh lùng: không buồn bực, không tức giận. Sau cái chết của Nga , mọi cảm xúc trong con người anh dường như bị vắt kiệt.
Anh biết sự việc sẽ diễn ra như vậy.
Những ngày gần đây quan hệ giữa anh và hội có vẻ bớt khó chịu hơn. Chiến tranh phải biết tha thứ những mềm yếu nhất thời trong con người. Những mềm yếu của Hội có nhất thời không, anh không biết. Chỉ biết là trong hoàn cảnh mới, khi không bijh rằn vặt vì những nỗi khổ tâm về miếng ăn, Hội có vẻ như đã lấy lại được cái phong thái vốn có của mình. Những câu chuyện văn chương những dự định sáng tác mở ra một khía cạnh khác trong con người Hội và cũng làm không ít người say mê. Những khao khát của Hội nhiều lúc làm Trọng có cảm giác việc anh đi B không có ý nghĩa gì đáng kể cả. Anh chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ của một công dân khi Tổ quốc có chiến tranh. Cảm giác pha đôi chút tự ty mặc cảm ấy có lúc khiến anh thấy mình nhỏ bé đi bên Hội và xoá mờ dần trong anh những nhược điểm của Hội. Với người nghệ sĩ, có thể bỏ quan những cái thứ yếu như vậy chăng?
Trọng đâu có ngờ rằng hai mặt trong người Hội không hề mâu thuẫn nhau, nó thể hiện cùng một bản chất. Trọng cũng lờ mờ hiểu ra điều đó nhưng anh không sao cắt nghĩa được một cách rạch ròi. Trọng phải trông cậy vào linh cảm. Ma linh cảm thì luôn luôn nhắc nhở với anh rằng: con người này không phải là một con người vững chãi trước khó khăn.
Anh đã được chứng thực điều đó.
Con sông không rộng nhưng trống trải. Hai bên bờ loáng thoáng những khóm rừng chồi. Đoàn có 30 người nhưng đò chỉ chở 15 người một chuyến. Anh bộ đội lái đò có khuân mặt trẻ măng, xắp xếp chỗ ngồi xong, nhắc nhở:
Chúng ta phải đi hai chuyến mới hết được. Bến sông này còn mới, có thể địch chưa phát hiện ra, nhưng trực thăng của chúng thường bay săm soi ở đây. Nếu có tình hình gì, tất cả ngồi yên trên đò để chúng tôi xử lý. Các đồng chí có súng, chuẩn bị. Nhớ là nhất thiết không ai được nhảy xuống sông. Nhưng đò chưa kịp rời bến thì có tiếng trực thăng phành phạch vọng lại. Ngẩng lên, Trọng đã thấy chiếc HU. 1A xẹt đến trên đầu. Không có dấu hiệu là nó sẽ bay đi tiếp. Mà nó không bay đi tiếp thật. Trọng thấy nó già lại, bay sát những khọm cây trên khóm rừng chồi. Đồng chí bộ đội lái đò ra lệnh:
- Tất cả ngồi im.
Chiếc trực thăng rà lại lần thứ hai. Rồi lần thứ ba. Đã có nhiều người nhấp nhỏm trên đò. Trọng bồng súng, nhắc nhơr các cô gái:
- Bình tĩnh.
Trọng không để ý đến Hội lúc ấy đang ngồi sau lưng anh. Mặt Hội xanh lét như tàu lá. Tiếng trực thăng như khoan vào tâm não anh. Anh dường như không nhớ gì nữa. Anh cũng không nhớ đến mện lệnh là phải ngồi yên trên đò. Cái hiện ra trước mắt anh là đôi mắt vô hồn của Nga. Anh cảm thấy như từ đâu đó bay xuống xuyên qua từng thớ thịt mình và chợt ngửi thấy mùi máu tanh tưởi xộc lên mũi.Trái tim anh co thắt lại. Trong đầu Hội một ý nghĩ như một đốm lửa nhỏ từ từ nhen lên và choáng dần tâm trí anh: chạy trốn!
Anh lao mình xuống nước như một người điên.
Những vạt sóng lan ra xa đã thu hút sự chú ý của chiếc trực thăng. Nó vòng lại. Tim Trọng ngừng đập. Lộ rồi. Anh chỉ kịp quát:
- Lên bờ. Tản vào các lùm cây.
Một tiếng, “ cào đùng” vang lên. Phát tên lửa cắm xuống cách con đò khoảng 10 mét dựng lên một cột nước nhỏ. Thoáng chốc con đò đã không còn ai. Trọng và anh bộ đội bám vào hai gốc cây:
- Pằng…pằng…pằng…pằng…
Hai loạt AK quét lên trời như roi quất. Chiếc trực thăng khựng lại, vọt lên cao. Nó bắn thêm hai phát tên lửa nữa rồi chuồn thẳng. Hình như cũng không thích thú gì lắm trò chơi này.
Trọng thở phào. Anh bước về phía Hội đang run lẩy bẩy ở phía sau. Anh nhăn mặ:
- Tại sao cậu làm vậy, sợ à?
Nhưng anh kịp dừng lại. Hội không trả lời anh. Đôi mắt anh ngó Trọng trừng trừng như muốn lồi ra khỏi tròng. Trọng nhìn sâu vào mắt Hội. Anh cảm thấy nó dại đi giống như hai cục thuỷ tinh không màu. Và anh hiểu. Con người đang đứng trước mặt anh đã chết rồi. Chết mặc dù không một vết thương.
Anh thở dài nhìn Hội lảo đảo đi về phía gốc cây.
*
* *
Bây giờ thì chẳng còn gì hết.
Tất cả bị đốt trụi đi.
Những ước mơ, danh tiếng, khát vọng bây giờ đối với anh chỉ là một danh từ khô xác, vô nghĩa, cứng đờ. Anh đã phải đổi nó bằng một giá quá đắt.
Một sự trống trải kinh khủng choán ngợp lòng anh. Nó quét sạch đi mọi ham muốn, mọi ý nghĩ mạch lạc. Trước mặt chỉ còn sự sống và cái chết. Cái ý nghĩ thoảng qua là mình sẽ chết làm người anh mềm nhũn đi, chân tay rã rời. Anh tuyệt vọng.
Nhưng làm sao sống?
Cái câu hỏi làm sao sống quất ngay tâm hồn Hội như một ngọn roi.
Anh không thể trông vào mình, cũng không thể trông vào ai khác. Điều duy nhất của anh là trông chờ vào số mệnh. Nhưng cái hy vọng mỏng manh ấy bất kỳ giây phút nào cũng có thể vĩnh viễn đứt tung.
Trong suốt cuộc đời đi học của mình chưa bao giờ Hội bó tay trước một bài toán khó. Đến nỗi có một bài phức tạp nào thầy giáo dậy toán đều phải triệu anh lên bảng. Không ít lần anh đã tìm ra được những lời giải độc đáo đến mức người thầy đã mấy chục năm trong nghề phải ngạc nhiên.
Nhưng đo chỉ là những bài toán sách vở.
Còn giờ đây là bài toán cay nghiệt của cuộc đời. Anh phải giải bài toán có sẵn đáp số này không chỉ bằng trí tuệ mà bằng cả phẩm chất con người anh.
Đi theo cách giải của bạn bè và chính anh đã làm, có thể sống vào đến nơi, nhưng ai đảm bảo là sẽ thoát chết. Chưa bao giờ anh cảm thấy cuộc sống mong mang như ở đây. Một viên đạn, một trận bom, thậm chí một cơn sốt rét, một con rắn đều có thể đột ngột chặn đứng cái dòng đời phơi phới của anh. Mà anh thì chưa muốn chết một chút nào.
Vậy thì tìm lời giải nào đây? Quay ra ư?
Quya ra. Hay đấy chứ. Anh sẽ trở về với gia đình. Anh sẽ trở về xưởng phim truyện. Anh thừa sức lo liệu để quay ra, và có thể người ta còn đón anh với tư cách một người hùng không chừng…
Viễn cảnh ấy không hấp dẫn như anh tưởng. Có chăng là anh thay vòng luẩn quẩn này bằng một vòng luẩn quẩn khác mà thôi. Giá như anh tính đến điều đó ngay từ đầu đoạn đường Trường Sơn thì lại khác. Anh đã đi quá xa. Lúc này, con đường ra đã dài hơn con đường vào gấp bội.Vả lại vào hay ra cũng chẳng có ý nghĩa gì khi mà tất cả các trở lực sắn sàng đe doạ cuộc sống của anh vẫn còn nguyên xi. Nghĩa là trốn trời không khỏi nắng. Trừ khi anh có phép màu bay qua những đoạn đường mình đã đi mấy tháng vừa rồi.
Chính lúc ấy trong đầu anh lờ mờ hiện ra một khả năng.
*
* *
Người xưa dậy “ cái khó bó cái khôn”. Nhưng cũng có người nói “ cái khó ló cái khôn”. Theo Hội, cách nào cũng đúng nhưng anh thích cách nói thứ hai hơn. Nó không khuân con người trong hoàn cảnh mà nó cho phép người ta chế ngự hoàn cảnh. Hình như nó chính là cái bản năng sinh tồn của tự nhiên, không chỉ con người mà loài vật cũng có.
Ngay từ nhỏ, Hội đã không muốn sống theo một khuân mẫu có sẵn. Ý thức có nguồn gốc từ trong quan niệm giáo dục của gia đình anh. Cả cái hoàn cảnh nhỏ ấy xung quanh những khuôn thước co anh tự nghĩ ra thay vì buộc anh phải theo nhưng khuôn thước sẵn có của nó.
Anh bước ra hoàn cảnh rộng với tất cả các cốt cách ấy.
Nhưng cuộc sống không phải là gia đình và mặc dù có phần chiều đãi anh nó vẫn làm anh vớ mộng. Nhất là khi nó đòi anh sống vì nó, cho nó, trong khi anh chỉ quen sống vì mình.
Anh trợt nhận ra một điều rằng: bắt cuộc sống khuân theo mình là điều không tưởng, trừ khi anh là một siêu nhân.
Anh không phải là một siêu nhân.
Song cuộc sống, dù cho nghiêm ngặt đến đâu cũng có những kẻ hở. Anh đã phát hiện ra những kẻ hở đó. Lập tức toàn bộ ý thức của anh được huy động tập trung lợi dụng những kẻ hở để bắt cuộc sống phải chiều đãi mình.
Chỉ có một lần, anh quyết định không bắt nguồn từ động cơ ấy. Đó là quyết định tình nguyện đi B.
Quyết địng nhuốm màu sắc lãng mạn ấy thực ra không trái với bản chất con người anh. Bây giờ thì anh thấy đó là một quyết định hoàn toàn không khôn ngoan.
Hội không phải là một con người suy tư. Anh không thích triết lý: “ tôi tư duy tức là tôi tồn tại” của Đề Các. Anh thích triết lý của Gớt hơn: “ Khởi thuỷ là hành động”. Hành động là nguồn gốc của sự tồn tại – Hội nghĩ thế.
Anh đã hành động thật. Đầu tiên anh khéo léo cắt chiến tranh thành chiếc áo khoác phù hợp với mình. Anh tân dụng mọi khẽ hở. Anh đã thành công.
Nhưng chiến tranh không phải là cuộc sống thường. Nó có quy luật riêng. Nó đòi hỏi sự rạch ròi đến tàn bạo hoặc thế này hoặc thế kia. Chiến tranh không chấp nhận sự nước đôi. Sớm hay muộn thì anh phải đối mặt với thực tế đó.
Ý thức về sự hành động đòi hỏi anh phải lựa chọn, một sự lựa chọn khôn ngoan, anh không thể cúi đầu cam chịu.
Con người hơn tất cả mọi sinh vật khác ở chỗ có một cái quyền độc lập tuyệt đối trước hoàn cảnh, ở chỗ có thể thay đổi số mệnh, cái mà có người cho rằng đó là quyền lực tối cao của thiên nhiên. Không, chẳng có số mệnh nào cả, chỉ có anh, con người cá nhân anh mà mới tự cứu được mình.
Lô gích ấy đã đưa anh đến một quyết định khá sơ đẳng và hoàn toàn hợp lễ: Rút lui khỏi trò chơi.
Đúng vào lúc anh có thể thở phào một cách nhẹ nhõm thì một ý nghĩ bất chợt ập đến làm anh bàng hoàng: Phản bội? Như thế là phản bội? Hay không nhỉ? Anh đã từng diễn thuyết rất hay về đức tinh cao cả của sự hy sinh. Nhưng anh sẽ không phản bội. Kẻ nào có dã tâm bước sang hàng ngũ bên kia bắn vào đồng đội của mình mới là phản bội. Anh sẽ không bao giờ làm cái việc thất đức đó. Anh chỉ muốn có cơ hội để sống. Anh thừa nhận đấy là một tính toán cá nhân nhỏ nhen. Nhưng phản bội thì không. Hoàn toàn không.
Thế còn bố mẹ anh, họ sẽ ra sao khi anh mất tích. Bố anh liệu có chịu đựng nổi không? Nhưng anh không phản bội. Anh chỉ mất tích thôi. Mà mất tích thì có nhiều lý do lắm chứ. Có thể bị bắt. Vả lại, biết làm sao được. Trước hết anh phải lo cho anh chứ. Làm sao anh có thể có trách nhiệm với tất cả mọi người. Anh chỉ là một cái tôi nhỏ bé, hèn yếu đang gánh phần trách nhiệm quá nặng nhọc của bản thân anh.
Anh đã lầm, hay là anh nguỵ biện? Hội không nghĩ đến điều đó. Chỉ biết rằng cái tôi nhỏ bé ấy hoá ra lại có sức lay chuyển cả một trái núi. Chính nó đã đẩy anh vượt qua cái đường ranh mà không một người có lương tâm nào có thể vượt qua.
XII
Người ta nói nước mắt là biểu hiện sự hèn yếu.
Thực ra thì không hẳn thế.
Bằng chứng là người ta vẫn khóc vào những giây phút sung sướng nhất của cuộc đời.
Với Hồng, giờ đây là những giọt nước mắt bất lực.
Hồng là cô gái hay khóc. Khóc rồi cười đấy, như chơi. Đến nỗi bạn bè vẫn gọi đùa cô là vực nước mắt.
Những ngày đầu ở Trường Sơn “ sở trường ấy cũng được phát huy. Đường xa: khóc. Leo dốc: khóc. Và thậm chí một con vắt bám vào chân cô cũng khóc.
Tính hay khóc của Hồng ban đầu làm Trọng khó chịu.
Hình như trong cuộc sống khắc khổ của mình Trọng không biết nước mắt là gì. Lúc mẹ chết, anh còn nhỏ quá để hiểu rõ nỗi đắng cay của sự mất mát to lớn và vĩnh viễn ấy.
Còn khi lớn lên? Trọng nhớ là mình chưa khóc bao giờ. Mà đúng là anh chưa hề khóc thật. Ngay cả khi anh bị người mẹ kế đánh cho nhừ đòn. Những chuyện ấy xảy ra như cơm bữa. Bà đánh anh bằng bất cứ vật gì nhặt được và cầm nó trên tay. Đánh chán, bà ném anh xuống ao và đứng đó chờ anh leo lên lại ném xuống tiếp.
Nhưng Trọng trơ ra. Anh không cười cũng không khóc. Và cứ hứng chịu như thế cho trận lôi đình trôi qua, giống như cơ thể anh làm bằng một thứ sắt thép hay gỗ đá gì chứ không phải bằng da thịt con người. Những cơn nóng giận triền miên của bà mẹ kế làm bốc hơi hết những giọt nước mắt vốn sinh ra đã có trong người anh. Có lẽ vì vậy mọi người thường đùa là ở anh vắt cả ngày không ra một giọt tình cảm.
Nhưng dần dà, anh hiểu ra rằng những giọt nước mắt của Hồng không phải là biểu hiện của sự mềm yếu. Ngược lại hình như có lúc nó lại rửa sạch những tính toán, băn khoăn. Rồi cuộc sống sẽ lau nước mắt cho cô. Anh nghĩ thế.
Quả nhiên, càng ngày Hồng càng ít khóc đi thật. Cái “ vực nước mắt” ấy cạn dần. Ít ra cũng về mặt hình thức. Những phản ứng tức thời không còn nữa. Cô cứng cáp và trầm tĩnh hơn. Những vật dẫn nhiệt mau nóng thì cũng mau nguội. Trước đây cô cũng thế. Còn bây giờ thì những cảm xúc thường đến chậm nhưng lại lâu phai hơn. Trước đây cô chỉ cần khóc lên là nguội hết. Bây giờ nước mắt không mau đến như thế. Thậm chí nó không đến. Nó chảy ngược vào trong. Ví dụ như lúc các cô buộc phải để Nga nằm lại ở một góc rừng.
Nỗi bất lực như một con sâu lùa vào trong các thớ thịt, gặm nhấm làm Hồng rã rời.
Hồng xốc lại ba lô.
Cái ba lô bây giờ đã lép xẹp. Nhưng cô mang nó vẫn như mang một trái núi. Mấy ngày nay, cô đã “ tảo thanh” cái ba lô nhiều lần. Đầu tiên cô vất đi những gì cô cho là không cần thiết. Đến lúc không còn gì để vất cô nghĩ đến việc cắt cái tăng cho nó nhỏ đi. Sau cái tăng thì đến lượt tấm ni lông. Lúc Trọng biết được gắt om lên thì cô bảo không nên để cái gì thừa, vô ích. Quả thật, lúc cắt đi một nửa tấm áo mưa cô khoác lên người vẫn còn vừa. Bởi vì người cô bây giờ chỉ còn một nhúm con.
Nhưng kết quả chẳng đáng là bao.
Phải “ cách mạng” triệt để hơn.
Bay giờ thì đến cái túi đựng hăng gô bị ném ra bìa rừng.
Rồi bỏ dao găm.
Sáng tạo hơn cô cắt luôn cả các túi ba lô, chỉ để lại một cái duy nhất. Chiếc áo bồ đội có hai túi, cô cắt sạch. Cô bóc từng bịch ni lông bọc các bao thuốc và cắt luôn cả những chiếc khuy thừa. Giá cô là con trai thì chắc cô sẽ làm như một ông già ở chi bốn, vất hết quần áo chỉ để một bộ mặc ở trên người. Khi có người hỏi làm sao ông tắm thì ông cười: “ Vào đến nơi sẽ tắm”.
Cái may mắn là đoạn đường cô vừa đi đã hết dốc. Ắn uống không thiếu thốn bao nhiêu.
Nhưng sốt rét đã rút cạn sức lực con người một cách ghê gớm.
Đã thế hôm qua cô và Hương còn đi lạc quanh quẩn trong mấy sóc Khơ Me mấy tiếng đồng hồ không tìm được lối ra. Lúc Trọng tìm được thì các cô đã nằm bò ra đường.
Đó là lần đầu tiên cô nhen lên cái ý nghĩ về sự bất lực.
Có lẽ không có cái gì đáng sợ hơn ý thức về sự bất lực. Kể cả cái chết. Đối đầu với cái chết đôi khi còn dẽ dàng hơn. Nó không làm người ta hoảng sợ nhưng nó bào mòn, gậm nhấm ý chí con người. Nó luôn tra tấn đòi hỏi. Với Hồng bây giờ ám ảnh cô là: Tại sao cô ra đi?
Vì sao cô ra đi?
Không có gì đơn giản hơn câu hỏi ấy. Trong những hoàn cảnh khác câu trả lời chẳng khó khăn gì. Nhưng bây giờ, nó được lật lại một cách phức tạp và rối hơn. Bởi vì, không giống như mọi người trong hoàn cảnh của cô có cái phạm trù có thể. Bởi, cô có thể không ra đi. Có thể lắm chứ. Tổ quốc không phải của riêng ai.
Cái ý nghĩ lướt qua ấy làm Hồng rùng mình.
Đúng tổ quốc không của riêng ai nhưng nó là của tất cả mọi người. Nó không trừu tượng. Nó nằm trong sự đổi đời của chính cha cô, nó nằm trong nỗi đau côi cút của Mai, trên vòng khăn tang của những người vợ mà cô đã thấy và bây giờ nó nằm trong cái chết của Nga. Cô hoảng sợ khi mơ hồ cảm thấy rằng: con đường phản bội của anh cô cũng bắt đầu từ chính ý nghĩ Tổ quốc không phải là của riêng ai đó.
Nỗi đau nhức lại bất chợt bùng lên. Một nhu cầu hoàn toàn không vụ lợi, có tính truyền thống đã dập tắt nhưng bản năng tự vệ của bản thân, khiến cho những ý nghĩ ảm đạm của cô biến mất.
*
* *
Chờ đến gần tám giờ mới thấy giao liên ra. Trọng thấy người sôi lên. Anh gắt toảng cả bãi khách:
- Làm ăn luộm thuộm thế thì thôi. Vậy mà các ông ấy bắt con người ta dậy sớm làm gì không biết.
Họ dậy sớm thật.
Ba giờ đã lục đục nấu cơm ăn. Bữa cơm sống nhai vào như nhai sỏi. Rồi nắm cơm bỏ vào hăng gô. Vậy mà cuối cùng ngồi chờ công cốc ở đây. Đã thế giao liên ra lại cho biết là muộn quá rồi không qua bưng được. Đành phải ở lại đến sáng mai. Mấy ông già sừng cồ cự nhau với mấy tay giao liên. Trọng không nói gì. Vô ích.
Hôm sau 12 giờ họ thức. 1 giờ phải đi đò qua bưng. Ngồi trong đò 45 phút mọi người vẫn nơm nớp vì lũ L19, T28, OV10 liệng vè vè trên đầu, đèn đỏ nhấp nháy liên hồi.
Cơn gió sớm mát lạnh cũng không giũ sạch buồn ngủ. Trọng ngáp đến sái quai hàm. Từ bìa bưng, họ xuống đò đi tiếp. Con đường rừng vắng lặng và tĩnh mịch. Màn đêm còn đen đặc đến mức phải dò dẫm mới thấy lối đi. Mới đầu đường còn khô. Vậy mà các cô gái cứ bước chật chưỡng. Họ vừa đi vừa ngủ gật.
Cơn ngủ gật chỉ hết khi họ đạp phải tổ kiến bộ nhọt. Nghe tiếng Hồng kêu thét lên như bị ma bắt, Trọng chạy lại:
- Cái gì thế, Hồng?
- Em bị con gì nó cắn.
Trọng nháng đèn pin. Kiến bọ nhọt. Nó bò đen đặc cả một đám lá mục dưới chân.
- Các cô nhanh lên đi, tránh đám kiến ra.
Mũi chích của con kiến bọ nhọt đau thốn đến đầu khiến Hồng tỉnh hẳn. Lúc ấy đoạn đường khô ráo đã hết. Trọng nhắc nhở:
- Chú ý, cẩn thận nhé, đường lầy rồi đấy.
Hồng thấy tiếng dép lép nhép dưới chân. Hình như là hậu quả của trận lũ vừa rồi. Hơi lạnh của rừng hiện ra như sờ mó được khi da chân cô chạm phải những mảng bùn lạnh lẽo và nhớp nhúa. Xứ sở này lạnh lùng thật. Rừng nằm ở đồng bằng chứ không nằm ở trên núi. Lại còn bị lụt nữa. Chuyện nghe qua nếu ở ngoài kia thì chẳng ai tin.
Những con đường là những cánh rừng. Nắng mưa, sốt rét. Đơn điệu thật. Nó giống như một bản nhạc tẻ nhạt, lê thê. Ngay cả ánh trăng ở đây cũng lạnh lẽo và cô đơn khác thường. Vậy mà cô đã dạo khúc đàn ấy xấp xỉ ba tháng, cần mẫn và kiên trì. Tưởng như nó đã gắn với cô suốt cuộc đời. Cô thật sự ngỡ ngàng khi gặp một sóc của đồng bào Khơ Me. Thì ra đã bao ngày nay cô đã sống một cuộc sống hoàn toàn không bình thường.
Tất cả là do chiến tranh.
Chiến tranh vốn là một sự kiện không bình thường trong đời sống. Những người chiến thắng là những người vượt qua sự không bình thường một cách bình thường. Sự dòi hỏi đơn giản ấy thực ra lại không hề đơn giản.
Con đường càng lúc càng khó đi. Mấy lần Hồng ngã bổ chửng sa chân xuống chỗ lầy, phải vất vả lắm mới rút lên được. Mờ sáng thì họ đến chỗ nghỉ.
Không ai bảo ai mỗi người chọn một tư thế ngồi. Hồng ném ba lô lên một mô đất cao đặt bi đông xuống đất. Đường đi chưa được bao lâu mà cô thấy cả người đau ê ẩm như có ai luồn dao vào từng thớ thịt.
Trời sáng hẳn thì họ tiếp tục đi.
Đường đã bằng và ít lầy lội hơn. Đây là một khu rừng già rậm rạp, ít dây leo. May mắn là họ gặp một chiếc xe bò của người Khơ Me. Ông già đánh xe khoảng 70 tuổi, tóc trắng như cước, vận xà rông, có bắp tay và lồng ngực rắn chắc, cuồn cuồn thịt. Ông già không nói được tiếng Việt nhưng khi Trọng chỉ tay lên chiếc xe và chỉ các cô gái là ông hiểu ngay.
Họ ngồi bệt xuống sàn xe kệ cho nó chật chưỡng đi. Hồng duỗi thẳng chân và thấy dễ chịu một cách không ngờ. Gân cốt trong người cô trùng xuống. Hoá ra cái hạnh phúc đối với con người có lúc cúng đơn giản và nhỏ nhoi thật. Người ta sẽ nói bao nhiêu chuyện thần thoại về con đường. Không ai biết rằng trên con đường đó đã từng có các cô gái cưỡi bò ra trận. Hồng mỉm cười với cái ý nghĩ không mấy lãng mạn ấy. Lúc đó, dưới đất, tiếng Trọng nói với lên:
- Thế nào, có dẽ chịu hơn không các quí tiểu thư?
Cả bọn khúc khích nhìn nhau.
Quí tiểu thư, hay thật. Anh ấy làm như các cô là các tiểu thư quý tộc Nga hồi thế kỷ 19 không bằng. Nghĩ vậy Hồng thấy vui vui. Chỉ có điều khác là ngày xưa các cô nương ấy ngồi xe ngựa kéo còn bây giờ các cô ngồi xe… bò kéo. Trong khi đó Hương quay về phía Trọng, khẽ nghiêng mình rất điệu:
- Xin chào bá tước Pi – e Trọng, tấm lòng vàng của kinh thành Pê – téc- bua. Xin cho biết ngài đi ra trận hay đi tìm nàng Hê – len kiều diễm.
Các cô gái nhao lên:
- Tìm He – len đúng không anh Trọng?
Hương vẫn ra vẻ thịng trọng:
- Ồ, nếu thế thì ngài sẽ thất vọng thôi. Ở đây không có Hê –len. Ở đây chỉ có Hê… Liên.
Trọng cười hiền lành. Các cô gái cũng cười. Tiếng cười vui vẻ làm ông già Khơ Me buột miệng cười theo, mặc dù ông không hiểu các cô gái đã nói với nhau những gì. Ông không rành tiếng Việt.
*
* *
Giấc ngủ đến từ từ nhưng khó nhọc.
Ba bốn hôm nay, đêm nào Hồng cũng lên cơn sốt. Nó thường bắt đầu 8 giờ tối và kéo dài đến quá nửa đêm mới cắt cơn.
Hồng không lo lắng lắm. Sốt mà vẫn đi là chuyện thường ở Trường Sơn này. Cô không muốn mọi người lo lắng vô ích. Vả lại cô có thuốc. Cô âm thầm chữa trị cho mình. May là nửa đêm về sáng cô vẫn ngủ được, nên dù khó nhọc cô vẫn lết được tới trạm. Hôm nay Hồng thấy người có vẻ khác thường.
Ngay từ lúc lên võng, cơn sốt đã ập tới không chờ đến 8 giờ tối. Đầu tiên Hồng cảm thấy lạnh suốt dọc sống lưng như có một luồng gió giá buốt luồn lỏi qua lần áo mỏng manh thốc vào. Khí lạnh của luồng gió ấy ngày càng tăng khiến cô run bần bật và không sao tìm ra thế nằm cho dẽ chịu. Cô càng run thì cơn lạnh càng dữ dội. Bây giờ bàn tay giá buốt ấy không rờ rẫm bên ngoài da dẻ cô nữa. Nó đang từ từ luần vào các thớ thịt, thọc lên lồng ngực và thò bàn tay lạnh như cục đá chụp lên quả tim cô, xoắn lại. Đầu cô đột ngột đau nhói như muốn vỡ tung ra.
Hồng cuộn người như con sâu nằm im trong sự bất lực của một kẻ không có vũ khí. Cô không còn vũ khí nào thật. Chiếc áo blu dông duy nhất hôm qua cô treo ở đầu võng đã bị kẻ nào đó tàn nhẫn lấy mất rồi. Vả lại bây giờ cái rét không đáng sợ nữa. Nó đã chuyển lên đầu. Hồng có cảm giác như bàn tay băng giá đang từ từ lùa dần tới óc và hoá ra khối thép nung đỏ có mang vuốt sắt. Cô nằm im bất động. Không phải vì cô bớt lạnh. Lý do đơn giản là cô không dám cử động. Mỗi nhúc nhích bây giờ, dù mạnh hay yếu, đều khiến cho những vuốt sắt kia chuyển động. Có lúc Hồng tưởng như những cái vuốt sắt ấy đang tàn nhẫn xúc từng miếng não của cô ra. Cô cứ nằm im chịu trận như thế cho đến khi cơn sốt ngừng lại. Lúc ấy đã quá nửa đêm. Sau đó cô thiếp đi.
Giấc mơ đến chập chờn và không mạch lạc.
Đầu tiên cô mơ thấy mình đang đi chơi ở công viên Thống nhất vào một buổi đẹp trời. Cùng đi có anh cô.
Nhưng rồi không hiểu sao cái công viên ấy biến mất. Cô thấy mình khoác sau lưng cái ba lô con cóc và đang dò dẫm trên đường Trường Sơn. Người đi cùng cô không phải là anh cô mà là Trọng.
Rồi cô nghe có tiếng máy bay. Phía bên kia đường lố nhố bóng những chiếc mũ sắt và những bộ quần áo rằn ri của bọn lính nguỵ. Cô thấy Trọng quăng ba lô chạy thẳng về hướng ấy. Cô thét lên đến lạc cả giọng:
- Sao lại chạy về phía đó, anh Trọng? Có địch đấy!
Trọng đang cắm đầu chạy, nghe tiếng gọi, quay lại, cười. Hồng lạnh người. Không phải Trọng, mà là anh cô. Không còn nghi ngờ gì nữa. Hồng thấy nỗi căm giận trào lên, cô quát:
- Dừng lại. Đồ phản bội. Bắt lấy nó.
Cô vụt chạy. Nhưng chỉ được mấy mét. Cô nghe một tiếng nổ khô khốc. Cô thấy nhói lên ở vùng ngực. Rồi cô lảo đảo ngã xuống. Lúc ấy từ phía bên kia, bọn lính nguỵ đã lố nhố chạy lại. Trong đám người đó, cô thấy có cả anh cô. Rồi cô có cảm giác buồn nôn. Khuôn mặt đẹp trai của anh trở nên ghê tởm một cách đáng sợ. Anh bước về phía cô, chìa tay:
- Đi với bọn anh đi. Không sao đâu.
Bàn tay ấy không còn là một bàn tay. Nó hoá thành một con rắn. Cô cảm thấy cái nọc độc con rắn đang từ từ bủa vây mình. Cô thét lên:
- Không.
Đúng vào lúc đó, giấc mơ biến mất. Sờ tay lên ngực cô không thấy có vết thương. vậy là mình nằm mơ. Một giấc mơ đáng sợ. Trán cô nhớp nháp mồ hôi. Cô bỗng thấy khát nước.
Uống nước xong. Hồng lại muốn đi tiểu. Cô lục xục tuột xuống võng. Nhưng cô thấy người cứ chao nghiêng đi. Định thần một lúc lâu, cô lảo đảo đi về phía rừng
Cô chỉ đi được khoảng 2 mét. Một cơn gió lạnh ùa đến khiến người cô run lên. Cô có cảm tưởng như xung quanh cô nổi lên trận cuồng phong nhấc cô lên và quấn đi như một chiếc lá khô. Cô há miệng định kêu, nhưng tiếng kêu tắc nghẽn nơi cổ họng. Mặc dù khi ngã xuống cô vẫn nhận thấy rõ ràng hơi thở ướt át của rừng.
*
* *
Hồng nằm như thế không biết bao lâu.
Hơi lạnh của sương đêm đã làm cô tỉnh lại. Cô nghe tiếng mối cắn lá rào rào xung quanh. Câu chuyện về một chiến sĩ lạc rừng trải ni lông dưới đất nằm một đêm đã bị mối xông gần kín hết làm Hồng hoảng sợ. Cô thử nhúc nhích tay chân nhưng nó chưa tuân theo ý định của cô. Trong óc cô chợt lướt qua một ý nghĩ kinh hoàng. Nếu mình không đứng dậy thì sẽ không bao giờ đứng dậy được nữa!
Hình như cái ý nghĩ ấy làm cô thêm sức lực. Bàn tay cứng đờ dần dần co giãn được. Phải đứng dậy không thì cô sẽ chết mất. Cô gằng gượng chống hai tay lên. Rồi quỳ chân. Và cuối cùng lấy hết sức bình sinh bật người lên. Cô lảo đảo, nhích từng bước một, đi về phía võng. Tương như khoảng đường 2 mét ấy dài dặc đến bên kia thế giới.
Cuối cùng cô vẫn đến được võng.
Những cố gắng dường như đã tiêu phí hết phần sức lực nhỏ bé mà cô vừa hồi phục lại được. Hồng bám vào cây cọc phụ, định leo lên võng, nhưng bàn tay cứ truội đi. Đôi chân nhỏ bé không đủ sức gánh cái cơ thể 36 ký, đột nhiên nặng như cả trái đất từ từ khuỵ xuống.
Hồng ngất đi lần thứ hai.
*
* *
Buổi sáng khi thu dọn tăng võng xong mọi người ngạc nhiên, thấy tăng Hồng không có động tĩnh gì.
Khi chạy lại Mai thấy Hồng nằm sóng soài trên mặt đất.
Lập tức cô được cáng vào bệnh viện.
Hôm ấy họ huỷ cuộc hành quân.
Buổi trưa khi ăn cơm xong, họ lại kéo nhau vào bệnh viện.
Người tiếp họ là một đồng chí viện trưởng trẻ tuổi nhưng đầu đã bạc trắng. Anh chăm chú nhìn Trọng và các cô gái.\
- Các đồng chí tìm ai?
Mai lễ độ:
- Thưa, chúng tôi muốn tìm chị Hồng.
Bệnh viện trưởng nhíu mày:
- Nhân viên bệnh viện chúng tôi không có ai là Hồng cả.
Hương trả lời:
- Chị ấy không phải là nhân viên bệnh viện mà là bệnh nhân. Chúng tôi vừa đưa chị ấy vào sáng nay.
Bệnh viện trưởng tỏ vẻ hiểu:
- À, vậy các cô cùng đoàn với cô bé ban sáng à?
Liên:
- Vâng. Nhưng chị ấy có sao không, đồng chí?
Bệnh viện trưởng lắc đầu:
- Không sao. Nhưng cũng không nhẹ lắm đâu. Sốt rét ác tính. Đái ra sắc huyết tố. Các cô hiểu chứ?
Trọng hốt hoảng;
- Liệu có cứu được không anh?
Đồng chí bệnh viện trưởng đăm chiêu:
- Anh cứ bình tĩnh. Sẽ cứu được thôi. Ở đây chúng tôi có kinh nghiệm trị sốt rét ác tính. Anh đừng lo.
Mai:
- Bọn em chờ chị ấy được không?
- Không nên cô bé ạ. Cô ấy sẽ còn phải điều trị lâu đấy. Các cô cần phải đi đến nơi. Càng sớm càng tốt.
Hương:
- Nhưng bọn em không muốn bỏ chị ấy ở lại một mình.
Bệnh viện trưởng cười:
- Sao lại một mình. Còn chúng tôi nữa chứ. Xin hứa với các cô là tôi sẽ lo cho cô ấy chu đáo. Được chưa. Xin nhớ là không ai đơn độc trên con đường này cả.
Anh rút ra một tờ giấy:
- Thôi, bây giờ ai là trưởng đoàn ghi giúp tôi cái lý lịch trích ngang và làm hộ cái biên bản bàn giao ba lô.
Trọng đón tờ giấy từ tay anh bệnh viện trưởng. Ba lô cô ấy có gì mà phải bàn giao. Anh ngồi xuống bàn với ý nghĩ không vui. Không hiểu tại sao hôm nay bàn tay cầm bút của anh lại run lên đến thế. Và nó thực sự run bắn lên khiến Trọng không kìm được lòng khi trước mắt anh hiện ra dòng chữ lạnh lùng của tờ lý lịch trích ngang: Khi cần báo tin cho ai.
XIII
Liên lấy chiếc bao gạo bằng vải cột chặt vào bụng và thận trọng đi xuống mé sông.
Những ngày gần đây cô sốt liên miên. Những trận sốt rét ấy kéo theo chứng sưng lá lách làm cô đi đứng rasat khó khăn. Đầu tiên cô kinh hoàng khi thấy bụng mình cứ từ từ lớn lên như người có chửa. Vào bệnh viện khám cô biết lá lách mình đã sa số ba. Bác sĩ nhắc cô phải cẩn thận khi đi đứng. Chỉ cần ngã mạnh một cái là có khả năng nguy hiểm đến tính mạng. Bác sĩ còn cho cô biết thêm, sau khi đã đoán chắc cô không phải là người thiếu nghị lực, là cô chớm có hiện tượng gan. Đúng ra thì chẳng phải khám người ta cũng có thể nhận thấy dấu hiệu đó qua nước da vàng như lươn ướp nghệ của cô.
Liên bình thản đón nhận căn bệnh cũng như bình thản đón nhận những gian khổ khác mà cô đã trải qua. Với cô điều quan trọng bây giờ là phải đi đến nơi đã. Đi đến nơi bằng bất cứ giá nào. Cách đây mấy hôm, cô gặp một cô y sĩ đồng hương đã đi trước cô cả năm mà bây giờ vẫn còn ở đây. Nỗi lo sợ phải nằm lại lâu dài như cô bạn nọ đã át nỗi lo sợ về bệnh tật. Nó làm giàu thêm lòng kiên trì và quyết tâm. Vì vậy mà cô càng bồn chồn vì ba ngày nay phải nằm lại trạm. Đường tắc không đi được. Phía trước họ là giặc đang càn.
Cái đáng sợ đối với Liên không phải là ở tình trạng báo động liên miên. Cô đã quá quen. Cô suốt ruột vì phải chờ đợi. Tâm trạng chờ đợi ấy tăng lên thêm với những bữa ăn khăm khổ vì thực phẩm không mua được. Mấy vạt rau của trạm ở ven sông bị trận lụt vừa rồi làm cho tan nát. Hết trơn. Các đoàn ùn lại càng làm sự khó khăn về thực phẩm tăng thêm. Người ta bòn hết cả những củ măng và các thứ ăn được ở quanh trạm. Cơm gạo lứt với cá khô mực và ít mắm bọ hóc của đồng bào Khơ Me chưa nuốt vào mồm đã muốn ói ra. Cái thứ mắm làm bằng cá sình cho đến nay vẫn không làm sao Liên quên được.
Lán ở bên một bụi tre ven sông. Từ ngày vào đây họ ít phải mắc tăng nằm ngoài. Trạm thường có sẵn những khung nhà. Khách đến cứ lợp tăng lên mà nghỉ.
Con sông Tê không rộng nhưng nước chảy xiết và đục ngầu. Vậy mà ăn uống tắm giặt đều trông vào đấy. Liên thấy ngần ngại không muốn tắm và chợt nhớ đến con sông Thao nước trong leo lẻo ở quê cô.
Những ngày gần đây cô càng ít nghĩ về mình. Không phải cảm xúc của cô đã phai đi. Có điều càng ngày cô càng cảm thấy những khó khăn của mình không thấm tháp vào đâu so với những điều mà nhiều người khác đã phải nếm trải.
Hôm qua, cô gặp 3 cặp vợ chồng thương binh ở B2 ra. Tình thế của họ làm cô sửng sốt.
Một cặp vợ 22, chồng 24, bị thương nặng đều đi cáng. Họ được cháu gái hơn một tuổi nhưng chưa biết đi vì thiếu dinh dưỡng và sốt rét. Tuổi đời thì mới một nhưng tuổi rừng thì đã hơn hai.
Một cặp khác còn đáng thương hơn. Người chồng có lẽ khoảng 24, 25, bị cột sống và sọ não. Cô vợ 23 tuổi cụt một chân lên sát đùi, trong bụng mang một cái thai 3 tháng.
Cặp thứ ba cũng thuộc diện đi cáng. Cả hai vợ chồng chỉ còn vẻn vẹn hai chân. Khi cô vợ bị thương, có thai trong bụng đã gần đến ngày sinh. Đứa bé chết ngay trong bụng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời.
Những thanh niên ấy tuổi đời cũng trẻ trung như cô. Nhưng họ không được chuẩn bị như cô để vào cuộc chiến đấu. Họ dấn thân vào đấu tranh đơn giản bằng tình yêu và lòng căm thù. Và điều đó đã cho họ sức mạnh. Để giành lấy hạnh phúc cho mọi người, họ đã hy sinh cả hạnh phúc cá nhân. Không giấy gọi tuyển quân, không một lời động viên, không sự hứa hẹn đãi ngộ. Cái thôi thúc họ là thôi thúc từ bên trong của lòng yêu nước, như một nhu cầu tinh thần, chỉ bộc lộ ra những hoàn cảnh đặc biệt, không tính toán và so đo vụ lợi. Có lẽ đấy cũng chính là điều làm nên sức sống mãnh liệt của một dân tộc.
Ý nghĩ ấy làm cho Liên thấy nỗi khó nhọc của mình vơi đi và cũng làm cho cô chợt nhớ tới Trọng.
Cô yêu anh rồi chăng? Cô không biết. Chỉ biết là lúc gặp anh cô trở nên vụng về và bối rối khác thường. Một thứ tình cảm không kiểm soát được cứ trỗi lên trong lòng cô làm cả người nhẹ bỗng như có gió. Nhưng còn anh? Đầu tiên cô thở phào khi biết anh chưa có người yêu. Nhưng niềm vui ấy chẳng được bao lâu. Cô buồn thiu đi khi thấy anh cư xử với cô không có gì đặc biệt hơn các cô gái khác. Đúng ra linh tính con gái cũng có báo với cô một điều gì đó. Nhưng từ sau mối tình oái oăm với anh con trai kia, cô hoàn toàn không dám tin vào linh tính của mình. Cô sợ. Cái giá đắt về sự nhầm lẫn đã khiến cô như con chim bị tên sợ cành cây cong.
Bây giờ chỉ còn mỗi cách chờ anh bộc lộ. Nhưng ý nghĩ ấy không làm Liên yên tâm. Nhỡ anh ấy không dám nói như đã không dám nói với cô gái cùng làng thì sao? Vô lý. Vô lý quá. Tại sao chỉ có con trai mới được quyền nói còn người con gái phải ngồi chờ? Trong khi biết mười muowi là mình yêu cà cuối cùng cắn răng cam chịu. Không. Cô không thể cam chịu như thế. Cô phải nói. Có thể vào hôm nay, hay ngày mai. Dầu Trọng có yêu cô hay không.
Quyết định được dứt khoát điều đó Liên vui vẻ hẳn lên. Cô bỏ tắm, xách bộ quần áo quay về hướng trạm.
*
* *
Mới hơn một tháng mà cái đầu sạch tóc của Mai đã mọc khá dày.
Bây giờ thì nó gần xấp xỉ bằng tóc trên đầu một anh con trai. Mặc dù còn lởm trởm như cánh rừng chồi sau mùa phát rãy cô vẫn thấy nhẹ người. Nỗi lo sợ về mất mái tóc đẹp còn lớn hơn nỗi lo sợ về cái chết. Cô không muốn gặp Thành trong tình trạng ấy. Cô không muốn người yêu phải thất vọng. Anh ấy yêu cô bắt đầu từ mái tóc óng ả của cô.
Nhưng bây giờ nỗi lo ấy thật vô nghĩa.
Buổi trưa, về đến trạm thì Mai nhận được tin của một anh ban cùng chi, là Thành đang hấp hối trong bệnh viện K4 từ hơn một ngày nay. Cô và các bạn tức tốc chạy vào thăm anh.
Nhưng Mai không lịp từ biệt. Anh đã nhắm mắt. Sốt rét ác tính đái ra huyết sắc tố đã dập tắt cuộc đời anh. Đèn đỏ đã bật lên vĩnh viễn.
Một cô y tá trầm lặng đã đưa họ lên cái lán gần đó.
Một cái giường tre, dát đã bung ra nằm trơ trọi ở một góc lán. Cô y tá chỉ cho họ xác của Thành. Vậy là Mai không bao giờ gặp anh nữa. Không bao giờ. Đến mặt anh Mai cũng không kịp nhìn. Một gói ni lông trông như bộ quần áo lặn được bơm không khí vào. Con người to lớn của anh bây giờ được gói trong tấm ni lông nhỏ bé này ư?
Các cô gái hạ mũ. Họ không nói một lời nào. Cũng không ai khóc được nữa.
Lại một người nằm xuống. Nhưng họ phải dũng cảm chấp nhận. Họ sẽ đi tiếp giấc mơ của anh. Sống chết là chuyện muôn thủa của đời sống. Vấn đề là sống thế nào? Chết ra sao? Rồi người ta sẽ chôn cất ở cái nơi cuộc sống anh đã ngừng lại. Một mảnh đất hoang vu. Đồng đội sẽ thay anh tiến về phía trước. Có thể sẽ không ai biết tên anh. Không ai biết cả nỗi đau đớn hy sinh thầm lằng trong cuộc đời ngắn ngủi của anh. Sẽ không có một tấm huân chương, một dòng chữ nào trên mặt báo`. Nhưng tất cả những điều ấy với người lính đâu có ý nghĩa gì. Cái quan trọng là anh biết mình chết vì cái gì và chết cho ai.
Tuy lý tính mách bảo rành rẽ với cô như vậy nhưng cái chết của Thành vẫn làm Mai bàng hoàng.
Tình yêu đến với cô như một tia chớp. Rồi lại vụt biến đi như một tia chớp. Ra đi không còn để lại một dấu vết nào cả ngoài dư vị ngọt ngào của cái hôn đầu đời mà có lẽ trong suốt cuộc đời không bao giờ cô quên. Cô đã run rẩy đón lấy hạnh phúc ấy. Nó đánh thức dậy phẩm chất con gái trong con người cô. Đó là những phút cô thấy hạnh phúc và vui tươi nhất như cô sinh ra chỉ để yêu và được yêu. Vượt qua bao cay đắng và gian khổ, cô đã nuôi trong lòng mình cái mầm hạnh phúc đó.
Chiến tranh đã làm nặng thêm gánh nặng đau thương nhưng cũng làm nặng thêm gánh nặng của lương tâm và trách nhiệm.
Trong sổ tính nợ của cô với kẻ thù bây giờ có thêm một cái tên thứ 5.
*
* *
Lúc biết tin Thành, người yêu của Mai, chết, Trọng cũng muốn an ủi Mai vài lời. Nhưng nghĩ sao anh lại thôi. Anh vốn vụng nói. Vả lại một lời chia buồn nào có ý nghĩ gì so với nỗi đau to lớn mà cô ấy phải chịu đựng. Hơn lúc nào hết, bây giờ anh chỉ mong Mai khóc được. Như thế, tâm hồn cô sẽ vơi nhẹ và dịu bớt đi.
Nhưng Mai không khóc.
Có những nỗi đau ập đến như một cơn gió độc, tưởng có thể đánh gục con người. Nhưng khi nó đã qua rồi thì tượng hồ không có gì xảy ra cả.. Con người lại có thể thở được, sống được và hoạt động được.
Mai cũng thế.
Suốt một ngày một đêm, cô nằm im trên võng. Không ăn, không ngủ, mắt nhìn trừng trừng lên nóc tăng. Tưởng như hồn cô đã lìa khỏi xác và vĩnh viễn không đứng dậy được.
Sáng hôm sau cô trở lại bình thường như không hề có chuyện gì xảy ra. Chỉ có đôi mắt là hõm sâu xuống.
Cô dậy sớm nấu cơm. Khi thấy Trọng xách dao và hăng gô thì cô đòi theo:
- Anh cho em đi với.
Trọng nhìn cô đăm đăm:
- Thôi, cô ở nhà đi, nghỉ cho lại sức. Tôi đi câu mấy con cá thôi mà. Tình hình êm rồi. Chúng ta cũng không ở lại lâu đâu.
Mai buồn buồn:
- Nhưng không được động chân động tay thì em không chịu đựng được…
Trọng an ủi:
- Ráng chịu đựng cô bé ạ. Rồi sẽ qua thôi. Chiến tranh mà. Những ai qua được cuộc chiến tranh này rồi sẽ có tất cả. Chúng ta không có quyền quên những người đã ngã xuống, những lúc này phải sống trước đã. Đó là quy luật của chiến tranh.
Vâng, quy luật, Trọng hiểu thế. Nhưng không biết sau khi nghĩ đến điều đó anh chợt thấy có cái gì nhói lên. Bây giờ thì điều ấy thật đơn giản. Có những điều chỉ có thể cắt nghĩa trong chiến tranh, và bằng con mắt của chiến tranh. Nhưng còn mai sau? Người ta sẽ hiểu thế nào về mỗi người lính nằm lại ở một góc rừng Trường Sơn. Nhiều người hy sinh tưởng những lý do không có gì liên quan đến chiến tranh cả. Hy sinh ngay khi chưa giáp mặt với kẻ thù. Có thể người ta sẽ hỏi: Tại sao họ phải hy sinh và sự hy sinh ấy có ích gì không?
Cũng như mọi người, Trọng không muốn có sự hy sinh như thế. Tránh được nó vẫn hơn. Nhưng chiến tranh là chiến tranh. Dù họ đã cố gắng hết sức quân số vẫn cứ rơi rụng dần. Điều đó làm anh xót xa. Đi tới nơi tới chốn, cái mục tiêu tưởng như đơn giản ấy đối với mỗi người lính cũng có ý nghĩa ngang bằng với một chiến tích ngoài mặt trận. Khi mà kẻ thù vẫn điên cuồng ngăn cản bước đi của họ. Và cùng với kẻ thù là toàn bộ cái trở lực ghê gớm của thiên nhiên. Cái trở lực không kém bom đạn và đòi hỏi còn người phải dũng cảm bội phần.
Có bao nhiêu người sẽ nằm lại dọc đường Trường Sơn? Đó là phần việc của những người tổng kết chiến tranh. Nhưng có những điều mà mọi con số, dù chính xác đến đâu cũng đều bất lực, nó vượt lên trên sự tính toán lỗ lãi thông thường. Đó là sự hy sinh to lớn của nhiều thế hệ để đi tới đích của cuộc chiến. Sự hy sinh ấy là vô giá, không tính toán cân đo được. Có khi người ta phải đổi cả một đời người chỉ lấy một giờ…
Trọng thở dài, quay đi. Nhưng được mấy bước, nghĩ sao anh ngoảnh lại:
- Hay các cô vào rừng tìm ít nấm mối ăn. Đêm qua mưa chắc là có nhiều nấm mối đấy.
Ý kiến của Trọng được các cô gái tán thành.
*
* *
Càng đi sâu vào, rừng càng cao ráo và thoáng đãng hơn.
Rốt cuộc chỉ có Mai và Liên đi tìm nấm. Hương phải ở lại coi nhà. Phần vì phải lo vài công việc vặt vãnh phần vì cô chưa được khoẻ. Đêm qua cô bị cảm lạnh.
Rút kinh nghiệm câu chuyện của Hồng, Trọng ra lệnh các cô phải mắc võng cạnh nhau. Cả anh nữa.
Sự lo xa của anh không thừa. Nửa đêm đang mơ màng trong tiếng mưa rơi và tiếng con sông réo, Trọng nghe lẫn có tiếng người kêu. Tiếng kêu xa xăm yếu ớt. Trọng bừng tỉnh. Anh dướn người lên. Đúng là có tiếng người kêu. Trọng nhỏm dậy. Tiếng kêu hình như vọng ra từ võng của Hương.
Không kịp xỏ dép và gọi các cô gái, Trọng vớ đèn pin chạy sang phía võng Hương. Anh vén màn. Dưới ánh đèn pin gương mặt cô gái xanh nhợt như một tàu lá. Anh hốt hoảng gọi:
- Hương! Hương. Có nghe thấy không Hương.
Hương không mở mắt. Tiếng kêu ú ớ yếu ớt vọng ra từ cái miệng đang cứng lại dần. Tay chân cô co quắp. Trọng sợ hãi nhìn ngón tay cô như người đang bắt chuồn chuồn. Anh đặt tay lên người cô. Lạnh toát như một tảng băng. Trọng vừa lay cô gái liên hồi vừa kêu lên, thoảng thốt:
- Hương, tỉnh dậy đi, Hương.
Tiếng kêu của Trọng đánh thức các cô gái. Họ choàng cả dậy. Lát sau họ đến bên võng Hương:
- Sao thế, anh Trọng?
- Cô Hương cảm lạnh rồi. Cô nào có dầu đưa đây. Cầm giúp tôi chiếc đèn pin.
Không kịp nhờ các cô gái. Trọng xoa lên người Hương hết cả một hộp dầu. Rồi hộp thứ hai. Nghe tiếng thở của cô đã đều đều, Trọng ngẩng lên:
- Cô nào sang trạm tìm y tá tới ngay.
Liên vụt đi. Lát sau y tá đến. Anh nói như ra lệnh:
- Các cô đứng xích ra một chút đi. Thế. Không sao đâu. May mà các cô gái phát hiện kịp đấy.
Anh tiêm cho Hương một ống long não nước. Lát sau thì Hương mở mắt ra, vẻ ngơ ngác:
- Tôi làm sao thế này?
Liên cười:
- Làm sao. Cậu định sang thế giới bên kia nhưng anh Trọng túm tóc kéo cậu lại.
Anh y tá gật đầu;
- Cô bị cảm lạnh. Laị trúng gió độc. Nhưng bây giờ thì ổn rồi, không sao đâu.
Trọng ân cần:
- Cô thấy trong người thế nào?
Hương nói để Trọng yên tâm:
- Em thấy đỡ rồi.
Chờ cho anh y tá quay đi, Trọng về võng lấy cái áo blu dông đưa sang. Anh bảo các cô gái:
- Các cô xoa thêm cho cô ấy ít dầu, đắp cả chiếc áo này nữa cho cô ấy. Rồi về đi ngủ. Có lẽ mới khoảng nửa đêm thôi.
Nhưng Trọng không ngủ được. Anh nằm trằn trọc mãi vì tiếng rên khe khẽ và nhịp thở khó nhọc của Hương.
Buổi sáng thì cô lại đi được. Nhưng cô không thể vào rừng tìm nấm. Mặc dù cô rất thích đi.
Mai và Liên không gặp may. Họ không tìm được cây nấm nào. Mệt quá Liên kéo Mai ngồi xuống một gốc cây bằng lăng. Liên rủ:
- Hay là mình đi về. Chắc là uổng công thôi.
Mai lắc đầu:
- Cũng có thể là uổng công. Nhưng thà là uổng công còn hơn nhàn rỗi. Mình sợ nhàn rỗi lắm. Nó bắt người ta phải nghĩ đến nhiều thứ. Mà mình thì đang cố quên đi.
Liên ái ngại:
- Cậu buồn lắm à?
- Mình không buồn. Mình chỉ đau thôi. Đau như có ai dùng dao thọc vào đúng quả tom mình ấy.
- Cậu yêu Thành lắm phải không?
Mai gật đâu:
- Nhưng cậu chỉ mới gặp Thành thôi mà. Phải không?
Mai xác nhận:
- Ừ, mình chỉ mới gặp Thành lúc tập trung đi B. Nhưng tình yêu và thời gian có liên quan gì với nhau.
Có khi còn mới chamj mặt đã yêu còn ở với nhau mãi tình yêu cũng không đến. À, mà cậu đã yêu chưa nhỉ?
Liên gật đầu:
- Một cú tình yêu sét đánh như cậu đấy. Nhưng mình đã bị phản bội.
- Đáng tiếc. Nhưng đó không phải là trường hợp của mình. Cuộc sống phong phú không bao giờ lặp lại. Và chính vì thế mà bây giờ mình đau. Cậu hiểu không. Nhưng cậu sẽ không hiểu đâu. Mình cầu mong cho cậu đừng bao giờ phải hiểu.
- Cám ơn lời cầu mong của cậu. Nhưng mình đã hiểu điều đó trước khi cậu biết nó kia.
- Cậu nói sao?
Liên buồn rầu:
- Xin lỗi cậu. Mình không biết.
- Sao cậu khách sáo thế. Trong chiến tranh không có nỗi đau nào là của riêng. Trước đây mình không hiểu vậy nên chẳng muốn tâm sự với ai cả. Mình âm thầm gánh chịu một mình. Nhưng cuộc sống dậy mình rằng: gánh một mình nặng lắm. Cuộc sống nhân hậu bao giờ cũng giàu nỗi cảm thông. Điều đó khiến cho mình vượt qua được. Nhất là nỗi đau của mình lại là nỗi đau luỹ thừa ba.
Mai ngạc nhiên:
- Sao vậy?
Liên cay đắng thú nhận:
- Đúng vào lúc bọn mình tổ chức đám cưới thì mình đã bỏ đi theo một anh con trai và bị anh ta phản bội.
Nhìn nước mắt Liên ứa ra, Mai chợt cười. Đang từ người được an ủi, baâ giờ cô lại hoá ra là người đi an ủi:
- Thôi nào, thôi nào. Tuổi trẻ mà cậu. Tất cả rồi se qua đi. Sẽ qua thôi.
*
* *
Từ gốc cây bước ra Liên thấy loá mắt vì một vạt nấm mối trắng lốp. Những cây nấm mối nhỏ, xinh xắn chen nhau đứng xếp hàng như một đội quân áo trắng tí hon đang vẫy tay chào mời. Cái thứ nấm mọc trên gò mối này ở quê cô hoàn toàn không có. Nó nhỏ nhưng ngon hơn nấm rơm và có khả năng không kém nấm hương. Liên thấy vị ngọt hấp dẫn cả nồi canh nấm ứ lên cổ họng. Cô gọi:
- Mai, mang gô lại đây.
Mai mang gô chạy lại. Cô hí hứng nhào xuống vạt nấm
Liên cười:
- Nhẹ tay thôi, thế, thế. Rũ sạch đất đi. Con gái Hà Nội có khác. Nhìn cậu làm mình nhớ hồi còn ở nhà. Một lần có đoàn sinh viên về thực tập. Toàn Hà Nội thôi nhé. Trông họ như tiên giáng thế một lượt.
Cả đời mình chưa bao giờ thấy những con người đẹp như thế đâu. Nhưng buồn cười lắm. Nói ra cậu bảo bịa. Cậu biết họ gọi cây lúa là cây gì không?
Mai ngẩng lên:
- Cây gì?
- Họ bảo là cây cỏ.
Mai nghi ngờ:
- Cậu chỉ bịa.
- Không! Mình nói thật đấy. Nhìn họ gánh mới vui nữa kia. Mỗi đầu gánh đúng hai lượm lúa. Không hơn. Khi họ giở vai trẻ con cả làng chạy theo. Cậu biết vì sao không? Đáng lý phải giở vai đằng sau thì họ lại giở vai đằng trước.
Mai cười ngoặt nghẽo:
- Lại bịa nữa.
- Mình mà bịa thì mình chết. Nhưng đó là hồi mình còn nhỏ kia. Hình như sinh viên hồi đó toàn là con nhà giàu. Còn bây giờ thì khác. Cậu chẳng hạn. Nhìn cậu ai bảo cậu là con gái Hà Nội, phải không? Tất nhiên là có cái không biết. Nhưng rồi sẽ biết. Ai mà biết hết được mọi điều.
- Thôi cậu dẹp cái kiểu ấy đi. Vừa mới chê người ta xong thì đã nịnh rồi. Mình không phải là loại lỗ mũi dễ phổng đâu. Nào,đưa hăng gô đây.
Đám nấm mới dẫn họ đến một bụi cây gai. Đang ham, Mai chợt nhìn thấy mấy sợi dây xanh đỏ loằng ngoằng/ Thuận tay cô cầm sợi dây lên, tò mò.
- Cái gì thế này?
Từ phía sau nhìn thấy Mai với sợi dây, Liên hoảng sợ. Cô hét lên:
- Buông ra, Mai.
Nhưng chậm mất rồi. Mai đã kéo dây. Một tiếng nổ gọn, đanh xé tung bụi cây gai trước mặt và hất luôn hai cô gái xuống đất giữa đám mối tơi tả vì bụi cát và màu đỏ…
*
* *
Cảm thấy chiếc phao động đậy, Trọng giật cần câu lên. Sợi dây vẫn rỗng không. Sao hôm nay xui đến thế! Từ sáng đến giờ mất tong bao nhiêu mồi giun mà cá vẫn không chịu cắn câu. Đã thế lũ dĩn còn lại cứ nhè người anh đốt đến điên phát điên lên. Trọng giận giữ bẻ nát cần câu ném xuống sông rồi xách dao đi về phía trạm.
Nhưng mấy mụt măng trong bụi tre lại hấp dẫn anh.
Trọng thèm muốn nhìn mấy mụt măng. Thứ này luộc lên kho với mắm thì phải biết. Nhưng anh lại ngần ngại nhìn đám gai tre tua tủa chỉa ra như những cây chông. Tre ở đây nhiều gai thật. Khác hẳn tre ở rừng Lào. Cùng với gai đám tai tre bắt vào nhau dày đặc như một bức tường thành. Có lẽ vì vậy mà mấy cây măng hiếm hoi trong đó vẫn còn yên ổn.
Nhưng nghĩ đến món mắm bọ hóc và cá khô mục, Trọng quyết tâm. Anh nai nịt gọn gàng và rút dao găm ra.
Trọng cũng không biết bằng cách nào anh đã chui tọt được vào bụi tre. Nhưng xắn mất gốc măng xong anh thấy ớn. Thoát ra khỏi bụi tre bây giờ còn khó hơn bội phần. Trọng cảm thấy như mình đang nằm trong cái cũi bằng dây thép gai.
Với con dao găm, anh rị mọ mở lối ra. Nhưng những cái tai tre dẻo dai và gai góc một cách đáng sợ. Cái áo bộ đội Tô Châu đã bị xoạc ra hai miếng. Bàn tay anh ứa máu vì gai tre cào.
Đúng lúc ấy anh nghe có tiếng nổ ở trong rừng.
Trọng lắng tai. Bầu không khí tĩnh mịch đã bao chùm tất cả. Những tiếng nổ kỳ là không hiểu sao như một bóng đen cứ lởn vởn và dần dần lớn lên trong đầu anh. Trọng cơ hồ thấy người lạnh đi trong một linh cảm chẳng lành. Cái linh cảm không phát ra thành tiếng càng ngày càng âm vang, xoáy vào lòng anh. Trọng thoáng ra khỏi bụi tre gai hệt người có phép màu. Anh chạy như bay về hướng trạm, bỏ quên cả hăng gô nằm lăn lóc ở bờ sông, mặc cho cái vấp như trời dáng vào gốc cây tiện băng mất một móng chân.
*
* *
Sau khi cáng Mai và Liên vào bệnh viện, Trọng cùng Hương lùi lũi trở về trạm. Họ không nói với nhau một câu nào.
Gô cơm Hương đang nấu dở đã tắt gấm từ lâu. Những hạt gạo trương phình lên. Nhưng cô cũng mặc. Còn lòng dạ nào mà cơm nước bây giờ.
Trọng cũng đi về võng. Anh cảm thấy mình rũ rượi, kiệt sức. Một sự trống trải kinh khủng tràn ngập lòng anh. Không còn gì cả ngoài một sự âm ỉ giận giữ đến tức tối, mỗi lúc một bùng cháy to hơn, giống như sự khao khát đòi đổi máu bằng máu. Nỗi lòng ấy chắc chắn sẽ vơi dịu đi nêu nó có chỗ trút.
Nhưng nó không có chỗ trút. Và chính vì vậy mà nó càng vò xé quẫy đạp trong lòng anh.
Ôi chao, các cô gái gây thơ của anh. Làm sao họ biết được đằng sau cái văn minh nhân loại kia lại ẩn dấu một sự tàn bào dã thú. Anh có lỗi là không nói trước cho họ. Anh quên không nghĩ tới điều đó. Lỗi tại anh. Tại anh. Giá như anh đừng bảo họ đi lấy nấm. Giá như…
Trọng gieo mình xuống võng, thở dốc, giống như một người bị thiếu không khí. Anh để mặc cho những giọt nước mắt rơi ra. Những giọt nước mắt to như được dồn tụ từ mấy chục năm lăn vào khoé môi anh. Trọng rùng mình ngỡ như nó có vị máu.
Phía bên kia Hương cứ lục xục hoài. Trọng không biết cô có khóc không. Chỉ thấy võng cô lát lát lại rung lên.
XIV
Hương bưng gô cháo đi về phía võng Trọng.
Hai ngày nay dẫu không ăn uống gì, anh vẫn hành quân. Anh đeo hết cả đồ đạc, gạo nước ba lô và để cô đi một mình. Anh giữ gìn cô như thần giữ của đến nỗi mấy tay đồng hương đến chơi với Hương phải phát khùng lên. Anh ít nói đến mức chỉ nói ra những lời thật cần thiết và chủ yếu là ra lệnh. Biến cố vừa rồi đã ném con người Trọng về nguyên trạng thái ban đầu.
Hương hiểu những gì xảy ra trong con người Trọng. Anh đang chiến đấu với cơn bão bên trong lòng anh. Những ngày gần đây cô càng tỏ ra đặc biệt dịu dàng với anh. Cô hay cười hay nói. Thực ra đấy cũng là một cách để cô dồn nén tình cảm của cô đối với bạn bè.
Nhưng những phút vui cười thì chóng qua còn nỗi đau thì luôn dai dẳng. Cô không thể nào quên được giây phút vĩnh biệt Nga. Cô thương Hồng sốt rét ác tính phải nằm lại không biết bao giờ mới hồi phục. Cô thương Mai và Liên, mặc dù bác sĩ đã quả quyết với cô rằng vết thương của họ không nguy hiểm đến tính mạng.
Khác với khả năng chịu đựng và dồn nén tình cảm của Hương, nỗi đau của Trọng có xu hướng muốn bung ra. Hình như tạo hoá đã phú cho phụ nữ cái khả năng chịu đựng tuyệt vời mà nam giới không có. Có lúc tự nhiên, Hương thấy anh đùng đùng vác súng ra giữa rừng nghiến răng xả lên trời hết cả một băng đạn AK. Nhưng thường thì anh tự hành hạ mình bằng cả những việc có ý nghĩa và không có ý nghĩa.
Hương bước đến bên Trọng, Rụt rè:
- Anh Trọng này.
Đôi mắt Trọng thất thần mất mấy giây:
- Gì thế Hương?
Hương mỉm cười:
- Anh ăn cháo đi.
Trọng xua tay:
- Tôi không ăn đâu. Tôi không đói.
Hương vẫn dịu dàng:
- Dáng ăn đi một chút anh ạ. Mấy bữa nay anh có ăn một chút nào đâu. Phải giữ sức mà đi chứ. Cả đoàn còn có hai anh em mình thôi. Để em xúc cho anh ăn nhé.
Trọng ngồi dậy miễn cưỡng cầm gô cháo:
- Thôi được, để tôi. Cám ơn cô.
Hương ngồi xuống cái giá đặt ba lô. Chờ cho Trọng đưa muổng cháo lên miệng xong, cô mới hỏi:
- Sao anh không nói gì với em cả. Như thế không tốt đâu.
Trọng khó nhọc nuốt muổng cháo:
- Nhưng tôi buồn lắm. Tôi là một chỉ huy tồi. Tôi đã không bảo vệ được các cô. Với người chỉ huy như thế trong quân đội chỉ có nước bắn bỏ.
- Anh có lỗi gì đâu. Không ai kết tội anh kia mà.
- Lương tâm tôi kết tội tôi. Làm sao tôi có thể chạy trốn lỗi của mình được. Giá như cái tay giao liên chết tiệt ấy không bị điếc và tôi đừng chủ quan thì Nga đã không hy sinh. Giá như tôi đừng bảo cô Liên và cô Mai đi hái nấm…Và, giá như tôi biết cô Hồng sốt ba ngày mà vẫn cứ hành quân.
- Nó không nói làm sao anh biết được?’
- Tôi phải biết vì tôi là người chỉ huy. Con người đâu phải là cái máy ghi âm muốn biết điều gì thì nhấn nút. Phải tự đi tìm hiểu lấy chứ.
- Không nên tự dằn vặt mình anh Trọng ạ. Trong chiến tranh có biết bao nhiêu cái giá như. Nhưng mọi cái giá như chẳng có ý nghĩa gì nếu như không có cái giá như lớn nhất: giá như không có chiến tranh. Vả lại anh đã làm hết sức mình kia mà.
Trọng buồn rầu:
- Đúng. Tôi đã làm hết sức mình. Vì thế mà tôi càng đau.
- Em cũng đau chứ. Nhưng vì đau mà huỷ hoại mình thì không nên. Chúng ta không được quên nhưng trước hết phải sống. Đó là quy luật của chiến tranh. Anh chẳng nói với bọn em như thế là gì.
Trọng ngồi im. Trong khi đó thì Hương vẫn tiếp tục:
- Anh hãy giữ mình, anh có hứa với em như vậy không.
Trọng gật đầu như một cái máy:
- Tôi sẽ cố gắng.
*
* *
Trọng không giữ được lời hứa.
Camr giác là mình có lỗi luôn gặm nhấm tâm can anh như một loài sâu bọ đáng ghét. Nó bám dai dẳng trong anh. Nó như con mọt đang dần dần khoan ruỗng từng thớ gỗ bên trong va chỉ chờ thời cơ là kéo sập luôn cả cái vỏ bên ngoài.
Trọng cũng bị đánh gục như thế.
Đầu tiên đấy cũng chỉ là một cơn sốt rét bình thường như một cơn sốt rét. Anh thấy người nhức mỏi, ớn lạnh và đi nằm ngay sau bữa cơm trưa.
Cơn sốt đến từ từ tựa như có thể sờ mó được. Sau đó là đột ngột tăng lên. Người anh lạnh run.
Cơn sốt như một bàn tay phũ phàng bóc trần hết quần áo anh và ném anh ra giữa đồng không mông quạnh vào một đêm tháng chạp rét cắt da. Chưa bao giờ anh cảm nhận được cơn lạnh rõ rệt như thế, tưởng như từng tế bào trong người đang đông cứng lại thành đá.
Lúc đầu anh lại ở trong một trạng thái hoàn toàn trái ngược. Nó như sợi dây mây so dẫn điện đang được đốt nóng lên. Rồi nó nóng hầm hập như cục đất ải phơi trong nắng tháng năm. Không! Nó giống như cục sắt vùi trong lửa đỏ thì đúng hơn, tưởng như chỉ cần dội lên một gáo nước là lập tức nước sẽ sôi lên sùng sục. Nó đốt cháy da dẻ anh. Nó nung chảy mọi thứ trong đầu khiến anh có cảm giác là não mình toàn là nước.
Cảm giác ấy làm Trọng mất thăng bằng. Anh thấy cái võng tự nhiên chao đi. Trước mắt anh hiện ra những quầng sáng vàng rực loang dần ra như sóng. Anh chới với trong cái khoảng không đó hồi lâu. Cho đến lúc đôi mí mắt nặng như chì từ từ khép lại. Những quầng sáng vàng rực thu hẹp dần. Cuối cùng nó chỉ còn một chấm sáng nhỏ xíu. Và tắt ngấm.
*
* *
Ba bốn ngày Trọng lần mò trong đêm hôm rét mướt. Nhưng con đường không hề ngắn lại. Anh không biết mình đi đâu. Nhưng có cảm giác mình sẽ đi như thế suốt đời và chắc chắn sẽ chết cứng vĩnh viễn trong cái bóng đêm giá lạnh ấy.
Đúng vào lúc anh sắp ngã vật ra đất, Trọng thấy hiện ra lờ mờ trong đêm bóng một ngôi nhà. Mùi khói ấm cúng bay đến chỗ anh làm anh tỉnh lại. Lê tấm thân đã kiệt lực vì đói rét, Trọng gõ cửa. Có tiếng kẹt cửa và một giọng cằn nhằn ngái ngủ từ trong nhà vọng ra:
- Ai hỏi gì trong đêm khuya khoắt thế?
- Tôi đây. Tôi là khách qua đường đây. Cho tôi ngủ nhờ một đêm. Rét quá.
- Không được, nhà tôi chặt lắm. Không có giường.
- Tôi không cần nằm giường. Tôi chỉ cần nằm đất. Một manh chiếu rách cũng được.
- Chiếu rách cũng không có. Thôi anh đi đi. Không có chỗ cho anh đâu.
Rồi cánh cửa gỗ sập lại.
Trọng tức giận đưa tay đập liên hồi trên cánh cửa gỗ lim. Nhưng tiếng đập cửa yếu ớt của anh mất hút dần trong đêm vắng.
Trọng lê bước tới căn nhà thứ hai. Căn nhà hình như không có người vì không có ái ra mở cửa. Nhưng từ trong căn nhà đó, lạ thay, vẫn vọng ra cái giọng nói khàn khàn, trầm đục mà anh đã gặp ở căn nhà trước.
- Không có chỗ cho anh, không có chỗ cho anh. Không…có…chỗ…cho…anh.
Thốt nhiên, tiếng nói ấy dấy lên như một trận cuồng phong khiến Trọng hoảng sợ. Anh vùng chạy. Tiếng nói vẫn bám riết lấy anh. Nó lồng lên như đàn ngựa hoang, rồi hoá thành một cơn gió mùa đông bắc tê buốt hất Trọng ngã vật xuống mặt đất giá lạnh.
Từ nơi Trọng nằm đất bỗng nứt ra một khoảng vừa đủ cho anh lọt xuống. Cả người anh lao vun vút trong khoảng không đen ngòm. Anh không sợ. Anh thản nhiên nằm im chờ cái chết đến.
Nhưng dần dần Trọng cảm thấy không phải mình đang rơi xuống hố mà đang rơi xuống đáy một con mắt. Trọng cố vận dụng hết trí nhớ của mình mà không biết con mắt ấy là của ai. Rồi giữa những ảo ảnh nửa tỉnh nửa mê nổi lên một cái gì giống như thật. Anh thoắt rùng mình. Đấy là ánh mắt của một cô bạn gái mà anh đa quen từ lấu lắm.
Họ cùng chơi và chăn trâu với nhau từ hồi cô bé còn để mái tocs trái đào.
Cô bé ấy hay cười và hay khóc. Nhưng tính khí cũng có lúc đặc biệt dữ dội. Nhà cô cách nhà Trọng một hàng rào hoa dâm bụt thưa. Trong tất cả đám trẻ chăn trâu cùng làng, hình như cô thương Trọng hơn cả. Có cái gì ăn, cô cũng nghĩ đến Trọng. Thậm chí có lần cô kiếm được một quả ổi non cô cũng chỉ ăn một nửa còn một nửa giắt vào cạp quần để dành cho anh. Nửa quả ổi ấy trở thành đề tài đàm tiếu của lũ trẻ chăn trâu. Có đứa không biết học lỏm ở đâu câu ca dao đã đọc toáng lên khiến cả bọn cười lăn lóc:
Con gái chơi với con trai
Ngày mai cái vú bằng hai quả dừa.
Trọng vừa xấu hổ vừa giận. Nỗi giận dữ đã khiến anh con trai lành như cục đất nhảy bổ vào cậu con trai kia trong tiếng hò reo cổ vũ của bọn trẻ. Nhưng phần thắng không thuộc về Trọng. Anh yếu hơn nên đã bị cậu bạn đè ngửa ra đất và thoi những quả ra trò.
Không ai để ý đến cô bé gái lúc ấy đang đứng ngơ ngác ở vòng ngoài. Lúc thấy máu mũi Trọng ứa ra thì mặt cô đanh lại. Rồi cô lao vụt tới. Cậu bé đè trên bụng Trọng nhỏm dậy và kêu thét lên. Vết răng của cô bé trên cánh tay cậu ta còn in mồn một và rỉ máu. Câu chuyện ấy làm bà mẹ kế của Trọng, mỗi lần đánh anh phải chùn tay lúc nhìn thấy cô bé từ bên hàng rào dâm bụt trừng trừng ngó qua.
Trọng nhớ có lần Hà nói với anh:
- Bọn chúng nó chế mình là vợ chồng.
Trọng ngơ ngác:
- Thế nào là vợ chồng?
Hà bụm miệng cười:
- Cậu gà tồ thật đấy. Vợ chồng là như bố mẹ tớ và bố mẹ cậu ấy. Ai chả phải lấy chồng lấy vợ và sinh con.
Trọng cấm hẳn:
- Nhưng mà như bố mẹ tớ thì tớ chẳng thích vợ chồng đâu.
- Ừ! Với lại tớ cùng không lấy chồng.
Trọng tò mò:
- Sao thế?
- Thì lấy chồng phải đẻ con. Mà mẹ tớ nói để đường nách, phải mổ ra đau lắm.
Những chuyện trẻ con ấy Trọng nhanh chóng quên đi. Nói cho công bằng, nó cũng có thể dẫn một cái gì đấy, về sau này, khi hai đứa lớn lên. Nhưng cô bé không kịp lớn.
Con sông ở quê Trọng có một cái thoi – một vạt đất nổi lên ở giữa sông có khá nhiều cỏ. Khi đồng cỏ hết, đám trẻ con thường cưỡi trâu qua sông chăn. Trọng nhớ hôm ấy nước sông lên to như lũ. Trâu Trọng đi trước. Hà cưỡi con trâu đi sau.
Con trâu của Hà đột nhiên trở chứng. Đang bơi, nó nghiêng mình hất cô bé xuống sông và lùi lũi bơi đi. Hà ráng sức lao theo con trâu nhưng nước triều lên đã đẩy ngược cô vào một con xoáy. Cô bé vừa hết sức vùng vẫy vừa rướn người lên:
- Trọng ơi, cứu với.
Trọng quay lại. Anh chỉ kịp nhìn thấy đôi mắt cầu cứu cảu cô bé và lao xuống sông. Nhưng đôi bím tóc chỉ nguẩy lên trong một thoáng rồi biến mất. Người ta cứu được Trọng. Còn cô bé thì họ phải nhờ thuyền chài mò lặn suốt ba ngày đêm mới tìm được xác…
Đúng là đôi mắt ấy. Nhưng sao nó lại sâu thẳm thế kia? Và hình như bây giờ nó phảng phất ánh mắt của Nga, Hồng, Liên, Mai. Máu trong người Trọng cơ hồ như khô đi. Anh thấy mình chìm dần, chìm dần xuống cái vực sâu hút hút ấy, trong khi tiếng cầu cứu cứ lớn dần lên và đột nhiên nổ ra như một tiếng sét:
- Trọng ơi, cứu với.
*
* *
Trọng mở bừng mắt.
Quần áo anh ướt đẫm mồ hôi.
Anh kinh hoàng nhìn cô gái đang đi trước mặt:
- Hà.
Hương hoảng hốt lay tay Trọng:
- Không phải Hà, em. Hương đây. Anh không nhận ra em sao?
Trọng lắc đầu:
- Hương nào? Cô là Hà mà. Cô còn nhớ hồi nhỏ bọn mình chăn trâu với nhau không?
Mắt Hương dân dấn nước mắt:
- Nhưng em là Hương. Và đây là Trường Sơn.
Trọng nhăn trán:
- Trường Sơn? Sao lại có Trường Sơn ở đây.
Rồi anh đưa tay về phía Hương, bật khóc rưng rức:
- Tha lỗi cho tôi, tôi đã không cứu được cô. Cái xoáy nước ác nghiệt ấy. Tôi sẽ giết nó. Sẽ…giết nó. Cô hiểu chưa. Tha lỗi cho anh đai, Hà…
*
* *
Trọng tỉnh lại một cách chật vật. Anh thấy người nóng hầm hập và khát nước nhưng không sao mở được làm môi đã khô cong để đồi uống. Anh chỉ gắng gượng mở được đôi mắt lúc cảm thấy có tiếng động mơ hồ ở ngay bên cạnh và cái bóng trắng toát của người bác sĩ bước vào. Cái bóng trắng cúi sát xuống anh:
- Anh thấy trong người thế nào?
Trọng rên khe khẽ:
- Cho tôi uống nước.
Người bác sĩ đưa cái bình tông nước cho anh:
- Anh uống đi.
Vị nước ngọt từ làm Trọng dễ chịu hơn. Nhưng anh không hiểu sao mình lại nằm ờ chỗ này. Anh cố nặn óc suy nghĩ. Nhưng vô ích. Hình như cái trí nhớ đã từ bỏ anh. Trong óc anh chỉ còn hiện ra loáng thoáng hònh ảnh của Hà.
- Hà đâu?
Bác sĩ ngạc nhiên:
- Hà nào?
- Người bạn gái của tôi ấy.
Bác sĩ cười:
- À, cô ấy ở ngoài trạm. Anh biết không, lúc đưa anh vào đây cô ấy cứ khóc như trẻ con. Tôi phải khuyên can mãi.
- Cô ấy không khóc được. Cô ấy chết rồi.
Bác sĩ nhăn trán:
- Cô ấy còn sống. Anh không tin thì để tôi tìm cô ấy vào cho anh.
Trọng lắc đầu:
- Tôi tin sao được. Chính tôi đã chứng kiến cái chết của cô ấy.
Bác sĩ tò mò:
- Cô ấy chết vì cái gì?
- Chết đuối. Chúng tôi cùng đi chăn trâu. Con trâu ngỗ ngược đã hất cô ấy xuống sông. Cô ấy bị cuốn vào xoáy nước. Toi cố hết sức nhưng không cứu được. Tôi có lỗi.
Một ý nghĩ lướt qua rất nhanh trong đầu bác sĩ. Anh gật đầu ve thông cảm:
- Tôi hiểu rồi.
- Thế các anh để xác cô ấy ở đâu?
Anh bác sĩ một thoáng bối rối:
- Tất nhiên là nhà xác. Nhưng anh yên tâm. Bọn tôi sẽ chôn cất cô ấy đàng hoàng.
Trọng nhỏm dậy:
- Anh cho tôi đi với.
Anh bác sĩ đỡ Trọng nằm xuống:
- Nếu anh khỏe thì chúng tôi sẽ để anh đi. Còn bây giờ thì anh cứ nghỉ đã.
Bác sĩ rút trong túi ra mấy viên thuốc ngủ:
- Anh uống đi. Cứ ngủ một giấc là mọi chuyện sẽ đâu vào đó thôi. Anh sốt cao quá nêm…
Cảm thấy mình lỡ lời, bác sĩ buông lửng câu nói.
Trọng bồn chồn:
- Nhưng anh sẽ cho tôi đi tiễn cô ấy chứ. Anh có hứa với tôi như vâyh không?
Người bác sĩ tỏ vẻ nghiêm trang, cố giấu một tiếng thở dài chỉ chực buột ra:
- Anh yên tâm:
*
* *
Những viên thuốc ngủ bắt đầu pháy huy hiệu lực. Đầu tiên Trọng thấy mình trôi bồng bềnh trên những đám mây xốp. Sau đó thì anh thiếp đi.
Lúc gần sáng, Trọng tỉnh dậy. Một cơn gió lạnh lùa qua khu nhà trống khiến anh rùng mình. Trong không gian tĩnh mịch, Trọng nghe rõ một tiếng con sông chảy. Hình như có một con sợi dây liên hệ nào đó trong tiếng réo của con sông làm tim Trọng nhói lên. Ý thức vừa hồi phục của anh đột ngột quay lại với Hà. Anh chợt nhớ đến câu chuyện hồi chiều với người bác sĩ. Thôi chết. Không chừng người ta chôn cất cô ấy rồi cũng nên. Nghĩ thế, Trọng hốt hoảng lồm cồm bò dậy. Anh xỏ dép sục sạo ba lô kiếm chiếc đèn oin.
Thận trọng để không làm thức giấc ai, anh rón rén bước ra ngoài.
Một linh cảm dẫn anh đi thẳng xuống nhà xác của bệnh viện.
Anh bước vào ngưỡng cửa bỏ ngõ, dừng lại trước chiếc giường có phủ tấm ni lông và khe khàng khéo nó ra. Ánh đèn pin dựng lại trên một khuân mặt trẻ măng đã đông cứng lại.
- Hà.
Trọng thấy nghẹn ứ ở cổ họng. Nhưng anh không khóc được. Nỗi day dứt về lỗi lầm của mình lại dây lên. Anh phải làm gì cho cô bây giờ. Chẳng làm gì được, chỉ trừ…phải rồi. Một ý nghĩ lạ chợt loé trong đầu Trọng. Phải để cô ấy được sạch sẽ và thảnh thơi trước khi sang thế giới bên kia.
Ý nghĩ ấy khiến Trọng lầm lũi vác cái xác ra bên sông.
*
* *
Khác với thường lệ, anh nuôi của bệnh viện hôm nay dậy rất sớm. Phải mấu cơm để anh em chiến sĩ ăn xong còn đi gùi gạo. Số còn lại thì chuẩn bị chôn cất một cậu lính trẻ vừa bị sốt rét ác tính quật ngã lúc 9 giờ tối qua.
Từ lâu công việc điều trị ác tính ở bệnh viện của anh tỏ ra có hiệu quả. Tỷ lệ tử vong giảm hẳn đi. Đã gần tháng nay bệnh viện không có một ca nào chết. Nhưng cậu lính trẻ kia thì vào bệnh viện quá trễ. Sốt rét vừa cắt cơn là cậu đã đi. Chỉ đến khi gục hoàn toàn mới chịu vào bệnh viện. Giá cậu chịu vào sớm hơn…
Đã đầu mùa khô. Không khí chớm lạnh. Ban đêm đã nhiều người phải đốt lửa để nằm. Còn bây giờ, anh nuôi vừa khoác trên mình chiếc áo blu dông vừa khe khẽ hát. Gió, từ phía bên kia lùa sang tuy hơi se se nhưng dẽ chịu.
Đang vo gạo, anh nuôi chợt dỏng tai lên nghe. Có tiếng nước róc rách đâu đó và tiếng người rì rầm nói chuyện rất gần. Anh hơi rợn. Có một cái gì đó đang tê tê lan truyền trong cơ thể. Anh dừng tay vo gạo. Lắng tai. Không, anh không lầm. Đúng là có tiếng người. Có cả tiếng khoát nước càng lúc nghe càng rõ. Anh buông giá gạo và thận trọng bước về phía tiếng động.
Trong ánh sáng lờ mờ, cách anh trừng vài mét hiện ra một bóng người không nhìn rõ mặt đang rì rầm nói chuyện gì đó. Có lữ anh ta đang tắm cho một người thì đúng hơn. Vì thấy người kia không mặc quần áo gì cả. Nhưng là người sao lại cứng như khúc gỗ thế kia? Không. Trời ơi hình như đấy là một cái xác. Anh rợn người, lùi dần. Lùi dần. Và đến khi cái bóng kỳ dị kia nấc lên:
- Tha lỗi cho anh, tha lỗi cho anh nghe Hà.
Thì anh kinh hoàng vùng chạy.
*
* *
Người ta đưa được Trọng về. Anh đã ướt như chuột lột. Y lời hứa bác sĩ mời anh dự lễ chôn cất người chiến sĩ kia. Anh tin người nằm dưới đất kia chính là Hà.
Buổi chiều Hương vào thăm anh. Nhìn thấy Trọng nằm im trên võng, Hương thấy mừng, cô gọi:
- Anh Trọng!
Trọng giật mình quay ra. Anh ngỡ ngàng trong một thoáng.
- Các đồng chí của tôi đâu rồi!
- Em là Hương đây! Anh Trọng. Anh yên tâm. Bọn em đã đến đủ rồi. Anh nghe chưa?
Hình như cái tiếng đủ cả rồi có một mãnh lực thật ghê gớm. Vẻ xa vắng vụt biến đi trên gương mặt Trọng. Anh thoắt rùng mình. Cái ý thức tưởng như đã rời bỏ hẳn anh đang chậm chạp trở lại. Chấm sáng ấy hiện ra, rồi từ từ loé lên đưa anh về dần cái ranh giới mà anh đã vượt qua. Trọng chợt nhớ lại tất cả. Anh thì thào, tương như anh chỉ cần hỏi to một chút là tiếng đủ của cả rồi của Hương sẽ vụt biến đi:
- Đủ cả rồi à? Cả Nga, Hồng, Mai, Liên, Hà chứ?
Hương gật đầu:
- Vâng.
Trọng ứa nước mắt:
- Tôi mừng quá cô Hương ạ. Thế mà tôi cứ lo. Tôi sẽ xin ra viện đi cùng với các cô.
Hương lắc đầu, cô đỡ Trọng nằm xuống võng:
- Anh chưa đi được. Anh nghe em. Phải ở lại điều trị đã. Cũng không còn mấy đường nữa đâu. Bọn em đi được.
Anh bác sĩ bước vào. Anh đến bên võng đặt tay lên trán Trọng.
- Cô ấy nói đúng đấy. Anh còn sốt cao. Chưa đi được đâu.
- Nhưng còn…
Hương quả quyết:
- Em sẽ lo chu đáo tất cả.
Trọng nhổm người lên võng nhưng anh lại choáng váng nằm xuống:
- Thế… cô sẽ thay tôi chứ?
Hương gật đầu:
- Em sẽ thay anh.
Tiếng Trọng nửa tỉnh nửa mê:
- Cô chăm sóc Hà giúp tôi nhé.
Hương cắn răng liếc nhanh anh bác sĩ:
- Vâng.
- Tôi thương cô ấy lắm. Chúng tôi cùng chăn trâu với nhau – Trọng bất chợt rít lên – cái con trâu và dòng nước xoáy chiết tiệt. Những quả mìn và những trái bom. Chao ôi, thằng Mỹ. Tôi căm thù nó. Tôi căm thù…
Hương cố nén dòng nước mắt chỉ trực trào ra. Cô khữ gọi:
- Anh Trọng.
Trọng chợt như tỉnh lại:
- Gì thế, Hương?
- Anh yên tâm ở lại nhé.
- Ừ!
- Anh cố giữ sức khoẻ. Đêm ngủ nhớ mắc màn. Anh nghe em nói không?
- Tôi có nghe.
Hương cắn môi, giọng nói như méo đi:
- Nếu không gặp nhau nữa, anh nhơ nhé: Sau chiến thắng, Bờ Hồ, ngày 15 tháng 4…
Trong tiếng nói giống như tiếng nấc của Hương, Trọng chợt thấy thức dậy một điều gì đó xa lắm. Một tia sáng cực mạnh lướt qua óc khiến anh thấy co thắt ở qủa tim.
Cái nhói đau từ trong lòng ngực như luồng điện chạy nhanh tản khắp cơ thể, chạy dồn lên đôi mắt. Trọng cảm giác mắt mình như có lửa. Rồi bỗng nhiên hai đốm lửa được ấp đẫm những giọt nước ấm làm dịu vơi hơi nóng. Dòng nước đưa Trọng từ khoảng hụt hẫng, hư vô định thần trở lại. Tiếng Hương thoảng thốt:
- Anh Trọng! Anh tỉnh lại rồi chứ?
Trọng quờ tay, anh đã nhận biết gương mặt Hương thần thờ đầy nước mắt.
*
* *
Hương bước ra cửa lán, người bác sĩ tần ngần bắt tay cô:
- Tạm biệt cô gái.
- Vâng. Tạm biệt anh. Nhờ anh chăm sóc anh Trọng giúp tôi.
Người bác sĩ gật đầu. Anh chăm chú nhìn Hương:
- Cô yêu anh ấy lắm à?
Hương gật đầu:
- Tất cả chúng tồi đều yêu anh ấy.
Anh bác sĩ ngạc nhiên:
- Tất cả?
- Vâng. Thì có gì lạ đâu. Anh ấy tốt lắm. Không có anh ấy thì không biết chúng tôi có đi được đến đây không?
- Tôi biết là anh ấy tốt, ngay cả lúc anh ấy điên.
- Không. Anh ấy không điên.
- Thế…còn những triệu chứng thần kinh.
- Anh ấy bị tâm thần. Đơn giản là anh ấy phải gánh một gánh nặng quá sức chịu đựng của quả tim. Anh ấy đã dần hồi phục lại.
- Cô có thể nói rõ hơn.
- Anh cần biết điều đó làm gì?
- Tôi là bác sĩ tôi phải biết căn nguyên căn bệnh của bệnh nhân.
- Anh ấy là đoàn trưởng thu dung của chúng tôi. Chúng tôi có 6 người. Một hy sinh vì bị bom, một bị sốt rét ác tính phải nằm lại dọc đường, 2 vướng mìn bị thương nặng.
Anh bác sĩ nhíu mày:
- Như thế thì có gì ghê gớm lắm đâu, điều trị xong họ có thể tiếp tục đi. Vả lại sống chết là chuyện thường tình của chiến tranh. Không lẽ cô không hiểu cái lô gích ấy.
- Nhưng đấy là cái lô gích của ý trí. Còn thứ lô gích khác, lô gích của quả tim. Nó có quy luật riêng.
- Nói như cô thì tất cả những người lính đều tâm thần cả sao.
- Không.
- Vì sao?
- Vì nỗi đau của họ có chỗ trút. Trước mặt họ là kẻ thù. Còn ở đây thì khác.
Người bác sĩ trầm tư:
- Tôi hiểu. Vậy cô có cần tôi giúp gì không?
Hương gật đầu:
- Tôi nhờ anh một việc.
- Cô cứ nói.
- Anh cố gắng làm nhẹ bớt nỗi đau của anh ấy.
- Điều đó vượt qua tầm tay của một bác sĩ.
- Nhưng anh không chỉ là một bác sĩ.
- Thế tôi là gì?
- Một đồng đội. Không hiểu điều đó thì mọi tri thức y học của anh chẳng có ý nghĩa gì dâu.
Anh bác sĩ nhún vai không nói. Anh lặng im nhìn theo bóng Hương đi ra khỏi trạm xá và thấy minh thoáng run lên. Có lẽ cô ấy nói đúng chăng?
*
* *
Hương rừng lại trước cây bằng lăng cổ thụ.
Cô nhẩm đọc những dòng chữ còn tươi nguyên nét khắc trên thân cây: Hùng qua đây ngày, Nam qua đây ngày… với những cái tên địa danh quen thuộc: Hà Nội, Hải Hưng, Hà Bắc… Cô ngạc nhiên nhận thấy bên những dòng chữ dày đặc có một dòng dành cho cô: “ Hương dáng lên nhé. Hẹn gặp nhau.” Hương lặng đi. Chao ơi, những nét dao còn thơm mùi nhựa. Đấy là lời nhắn nhủ của các bạn cô hay khát vọng của cả một thế hệ gửi lại mai sau. Cô không biết. Chỉ biết là nó đang thổi vào lòng cô một luồng hơi ấm khiến nỗi đau mất mát dịu đi và xoá dần cái cảm giác cô đơn sau khi cô chia tay Trọng.
Bây giờ cô không chỉ có một mình.
Con đường mòn sau cơn mưa muộn mằn cuối mùa dày đặc dấu chân. Người giao liên đi trước cô có lát lát lại bẻ một cành cây tấp lên các ngã rẽ. Anh ta làm thế cũng bằng thừa. Hương nghĩ vậy. Sẽ không ai đi lạc được đâu. Vì nếu có đi lạc thì họ lập tức tìm ra đường ngay căn cứ vào những dấu dép cao su kéo dài dặc trên đường mòn. Những dấu chân bền bỉ nối nhau ấy làm Hương mỉm cười khi nhơ đến bài thơ “ Dấu chân qua trảng cỏ” của nhà thơ trẻ Thanh Thảo.
Lúc ấy từ phía sau cô một đoàn bộ đội súng đạn lỉnh kỉnh lục tục kéo lên.
Vượt qua cô là những khuân mặt trẻ măng. Có người còn vương trên mép mấy sợi lông tơ. Trong bước chân ồn ã, tiếng cười của họ vỡ ra, sáng láng.
- A xin chào cô bé. Tại sao lại đi một mình thế kia? Nhập đoàn với bọn anh đi. Chỉ cần mỗi người bọn anh xách một tay là cô có thể đi đến chiến trường rồi.
- Chào đồng hương nhé. Thái Bình năm tấn đây.
- Lầm rồi ông ơi. Không phảo dân nhà máy cháo đâu. Đồng hương Thanh Hoá của tôi đấy.
- Ối! Nước cộng hoà Thanh Hoá các ông làm gì có người thắt đáy lưng ong thế kia. Con gái xứ ấy chỉ có thon thon hình vại, thoai thoải hình chum thôi. Có phải Phú Thọ không cô bé ơi.
- Dân xin xà phòng hay hớn nỗi gì mà phải đi khoe. Cô “lày” đúng là người Hải Hưng quê tôi.
Một cậu cười phá lên:
- Ngọng líu ngọng lô mà cũng bày đặt tìm động hương.
Một anh có vẻ là chỉ huy, dấn tới:
- Hình như cô là người Hà Nội phải không?
Hương gật đầu:
- Vâng.
Cậu chiến sĩ đi sát anh chỉ huy hét to:
- Thôi đừng cãi nhau nữa. Hà Nội đất thánh đấy. Đồng hương với đại đội trưởng.
Tiếng một cậu nào đó reo to:
- Hà Nội các cậu ơi. Vậy là đồng hương với tất cả chúng ta. Với tất cả… nghe rõ chưa?
Hương mỉm cười nhìn xung quanh. Một niềm vui xen lẫn đôi chút cảm động từ từ dâng lên chảy tan trong máu khiến cô muốn khóc. Và cô khóc thật. Khóc không giấu giếm. Cô cứ để cho giọt nước mắt ấy tự nhiên lăn ra. Phía sau, một cậu lính trẻ bước tới ra giọng rất đàn anh:
- Sao lại thế, cô bé. Đừng khóc nữa. Đưa tôi mang ba lô cho.
Hương ngần ngại nhưng rồi cô cũng trao ba lô cho anh. Người cô nhẹ bõng như vừa cất cánh bay. Anh lính trẻ khoác cái ba lô của Hương vào trước bụng, mỉm cười, giục:
- Nào đi. Không còn xa nữa đâu.
Đoàn quân lại rầm rập tiến về phía trước.
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 10- 1985
Thay lời kết
Tôi đã viết xòng quấn tiểu thuyết. Không có gì mới mẻ về cấu trúc. Không có những mối tình éo le, những tình huống ly kỳ. Tôi chỉ đơn giản dựng lên một bức tranh giống như đời sống. Có thể có người nói nó không phải tiểu thuyết. Nhưng không sao. Miễn là nó có ích. Thế thôi.
Cuốn sách của tôi liệu có ích không? Tôi chưa biết. Có điều vào những lúc viết những chương cuối cùng, tôi có đọc cho vợ tôi nghe. Lúc ấy có mặt đứa con 6 tuổi của tôi đang học lớp 1. Từ đấy theo thông lệ, cháu đòi tôi hàng ngày phải đọc cho cháu nghe những trang tôi đã viết được ngày hôm qua. Không biết cháu có thích thú không nhưng cháu tỏ ra chăm chú lắng nghe. Điều tôi ngạc nhiên là cháu còn tham gia sử lý cốt truyện. Cháu đòi tôi không cho nhân vật này chết, nhân vật kia bị thương. Cháu rành rọt nói với tôi rằng: “ Con muốn thế”.
Vâng, tôi cũng muốn thế. Chúng ta đều muốn thế.
Chiều ý cháu tôi đã thay đổi số phận một số nhân vật.
Nhưng chiến tranh là chiến tranh và chúng ta không phải là trẻ con. Làm sao có thể dựng lại được những gian khổ và ác liệt của cuộc chiến đấu nếu chỉ căn cứ vào ước muốn. Kết cục cuộc cuốn sách phải là kết cục của cuộc sông chứ không phải là kết cục có sẵn trong đầu. Tôi chọn giải pháp dung hoà. Điều đó có phần hơi khác với ý định ban đầu của tôi.
Dẫu sao cuốn sách cũng đã xong. Các nhân vật của tôi hiện còn sống. Nếu có một bạn đọc nào thắc mắc điều gì thì có thể tìm gặp họ. Bởi vì, tôi không dám suy nghĩ thay bạn đọc thông minh của tôi. Toi chỉ cung cấp những dữ kiện để suy nghĩ.
Số phận của cuốn sách sẽ bắt đầu khi bạn đọc gấp lại trang sách cuối cùng. Nếu nó không đạt được điều gì thì đó là lỗi tại tôi.
Xin cám ơn các bạn.