Chủ Nhật, 20/04/2025
28.4 C
Ho Chi Minh City

Vũ khúc chùa Hương

Kim Anh

Chùa Hương gắn liền với thắng cảnh Hương Tích từ hàng đời nay luôn nằm trong tâm thức mỗi người dân Việt. Nơi đây vừa là chốn tôn nghiêm cửa Phật vừa là thắng cảnh đệ nhất động trời Nam nên luôn mang đến nguồn cảm hứng thi ca cho những ai một lần đặt chân tới, trót “bén” và trót “say” với tiếng chuông chùa hòa quyện vào không gian hùng vĩ của núi rừng cùng dòng suối như dải yếm đào, với những động tuyệt đẹp ẩn sâu trong lòng điệp trùng núi non… ngỡ như tiên cảnh, lạc chốn Đào Nguyên.

Và cũng vì thế mà ranh giới giữa đạo và đời thật mong manh Dường như không ở đâu linh thiêng như thế và cũng chẳng nơi nào lại gần gũi đến như thế. Chính nơi đây đã là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nhạc sĩ Việt Nam. Nền Tân nhạc nước ta hình thành và phát triển cho tới nay cũng quãng 80 năm thì gần như chừng ấy thời gian dấu ấn của Hương Sơn đã in vào những tác phẩm thi ca và âm nhạc.

Năm 1934 nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp sáng tác bài thơ nổi tiếng “Cô gái Chùa Hương”, sau đó năm 1946 nhạc sĩ Trần Văn Khê đã phổ nhạc và lấy tên là “Đi chơi chùa Hương”. Chừng nửa thế kỷ sau Trung Đức phổ lại bài thơ này và lấy tên là “Em đi chùa Hương” ngay lập tức ca khúc được yêu thích và nhanh chóng được phổ biến rộng khắp. Song, ca khúc đầu tiên của nền Tân nhạc viết về Chùa Hương có lẽ là “Chùa Hương” của Hoàng Qúy sáng tác năm 1943.

Nhiều nhạc sĩ trong nước và hải ngoại như Thanh Tùng, Song Ngọc… cũng đã có những tác phẩm hay về chùa Hương. Và hẳn đâu đó vẫn còn những ca khúc ca ngợi Chùa Hương chưa được phổ biến. Song dẫu có chừng ấy hoặc hơn thế vẫn chưa đủ để xứng với một Hương Tích gắn liền với đời sống tín ngưỡng, tinh thần của người Việt.

 

Mặt khác, ca khúc về Chùa Hương đã được phổ biến chủ yếu nghiêng về phần hội, âm nhạc mang hơi hướng dân ca đồng bằng Bắc bộ tả những nam thanh nữ tú háo hức đi chơi hội chùa như trong: “Đi chơi chùa Hương”, “Em đi chùa Hương”; hay “Chùa Hương thiếu em” (Thanh Tùng) qua giọng ca Bảo Yến khiến ta liên tưởng tới một bản tình ca mang hơi hướng của âm nhạc dân gian miền Trung; còn với “Bao giờ anh đưa em đi chùa Hương” (Song Ngọc) là một bản nhạc trữ tình, tác giả giãi bày tâm trạng hoài niệm về cố hương.

Chỉ duy nhất thấy ở “Chùa Hương” của Hoàng Qúy khai thác đậm yếu tố âm nhạc Phật giáo. Có thể cảm nhận được ở đây màu sắc Phật giáo ngập tràn từ những giai điệu.

Tập nhạc “Hương Sơn ca” của Cù Lệ Duyên gồm 11 ca khúc, cũng là chừng ấy bức tranh âm nhạc về các góc độ khác nhau trong chủ đề Hương Tích, chùa Hương, đạo Phật và con người.

Ca khúc “Hương Thiên” nhè nhẹ vào lòng người bằng tiếng đàn bầu bổng trầm kết hợp cùng tiếng mõ đều đặn điểm tô thêm tiếng chuông chùa, tất cả như gợi hồn dân tộc trên nền của hòa âm đi theo hình hợp âm rải dễ liên tưởng tới nhịp mái chèo đều đặn trên dòng suối mộng mơ, để rồi giọng nam đầm ấm cất lên như đưa người nghe vào thế giới linh thiêng mà gần gụi

Vẫn âm hưởng âm nhạc Phật giáo nhưng “Ngọc sáng trời Nam” có giai điệu “mở” hơn, phóng khoáng hơn, tiết nhịp hối thúc hơn:

Ca khúc “Cung đàn Hương Sơn” mang một âm hưởng trong sáng. Ta cảm nhận thấy tiếng chuông chùa ngân vang, tiếng đàn tỳ bà nhả từng âm thanh như những giọt nước thanh khiết nơi động Hương Sơn, rồi đan xen với tiếng đàn bầu khiến không gian thêm diệu vợi, giọng nữ trong vắt cất lên nhẹ nhàng

khiến lòng ta thêm vấn vương, hồn ta thêm xao động trước vẻ đẹp của Hương Sơn, tựa như si mê một cô gái đẹp:

Hai ca khúc “Trảy hội” và “Hương Xuân” dường như muốn thoát khỏi không gian âm nhạc linh thiêng để đến với sự chộn rộn, xao xuyến của những chàng trai, cô gái trong mùa trẩy hội Chùa Hương.

Ca khúc “Trẩy hội” mang âm hưởng dân gian đồng bằng Bắc bộ, có điều không như hội xuân bình thường, ở đây, đi trẩy hội chính là dịp nam thanh nữ tú thành kính lễ Phật để hiểu thêm những lời Phật dậy, để nhận ra và tìm thấy chân lý soi rọi cuộc đời mình.

Ca khúc “Hương Xuân” mở ra không gian âm nhạc lãng mạn của thời kỳ đầu nền tân nhạc, ngỡ như không gian của miền sơn cước với núi non điệp trùng, giọng nữ đầy chất phóng khoáng lả lơi càng làm cho “Hương xuân thêm lung linh

Điều thú vị ở album này là đề tài hết sức độc đáo, có lẽ ít ai thấy những đề tài như “Áo cà sa”, “Suối Giải Oan” hay “Mẹ Quán Âm”… tưởng chừng như nằm sâu trong phạm vi của Phật giáo vậy mà đã được khai thác để trở thành những ca khúc đại chúng là điều cần ghi nhận.

 

Chùa Hương qua thi ca

Hằng năm cứ đến độ tết đến, xuân về, người dân quê tôi lại bồi hồi ngóng đợi ngày khai hội chùa Hương vào mùng 6 tết. Vừa trông đợi vừa tự hào, bởi chùa Hương có 4 cái nhất: Ngoài việc, ngày xưa được Vua ban tặng: “Nam thiên đệ nhất động”, nơi đây còn là lễ hội dài nhất (kéo dài 3 tháng),

người trong cả nước tới lễ hội đông nhất và ở đây có nhiều đò, ghe nhất, để chở du khách theo dòng suối Yến vào chùa. Riêng chúng tôi còn thấy một cái nhất nữa là từ xưa tới nay, chùa Hương có nhiều bài thơ tình, ý nhị, nổi tiếng nhất.

Đầu tiên phải kể đến bài thơ “Rau Sắng Chùa Hương” của Tản Đà. Đó là vào mùa xuân năm 1922, trong hoàn cảnh túng thiếu, ông không đi hội chùa Hương được, ngồi ở Hà Nội, nhớ hội chùa, nhớ rau Sắng (sản vật nổi tiếng ở chùa Hương), ông làm bài thơ tự tình:

Muốn ăn rau Sắng chùa Hương

Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa

Mình đi ta ở lại nhà

Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.

Bài thơ được đăng trên báo. Không ngờ ít ngày sau bỗng nhận được một bưu phẩm không đề của ai gửi. Mở ra xem thì thấy một bó rau Sắng chùa Hương còn tươi, kèm thêm mảnh giấy đề 4 câu thơ rằng:

Kính dâng rau Sắng chùa Hương

Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa

Không đi thì gửi lại nhà

Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.

Ký tên: Đỗ Trang Nữ

Nhà thơ cảm động không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi ngay kẻ cho quà là “Người tình không quen biết” và làm bài thơ “cảm tạ tri ân” đăng lên báo. Nghe đâu mớ rau Sắng và mấy vần thơ trên là của Đỗ thị Khê, biệt hiệu Song Khê- một người hay làm thơ và rất mến phục Tản Đà, lúc ấy đang làm công tác y tế ở thị xã Phủ Lý . (Đỗ tang nữ là cô gái hái dâu họ Đỗ, chính là nữ sĩ Song Khê (1903)).

Nhiều người còn nhớ mãi bài thơ nổi tiếng. Bài thơ dài (136 câu), điển hình cho phong trào thơ mới (1932- 1945) của Nguyễn Nhược Pháp về “Chùa Hương”. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn, là thể thơ gần với lời ăn

tiếng nói hằng ngày của người dân nhưng lại không tầm thường, dung tục. Nhân vật chính của bài thơ là một cô gái có nhan sắc nhưng còn ít tuổi và rất hồn nhiên:

Em tuy mới mười lăm

Mà đã lắm người thăm

Nhờ mối mai đưa tiếng

Khen tươi như trăng rằm

Nhưng em chưa lấy ai

Vì thầy bảo người mai

Rằng em còn bé lắm

Ý đợi người tài trai

Trong chuyến đi chùa Hương năm ấy, cô gái đã gặp người “tài trai” khiến cô rung động:

Người đâu thanh lạ nhường

Tướng mạo trông phi thường

Lưng cao dài, trán rộng

Hỏi ai người không thương

Cô gái trong bài thơ thể hiện rõ là con nhà gia giáo, thật thà mà ý tứ. Thoạt tiên cô còn giấu tình cảm của mình, song bố mẹ cô cùng đi chùa, cũng biết chàng trai là người có học, lễ phép, từ đó suốt cả hành trình thăm chùa chiền, hang động, đôi bạn trẻ đã có cớ để luôn gần nhau. Cô gái từ tâm lý ngại ngùng, giữ ý ban đầu:

Em đi, chàng theo sau

Em không dám đi mau

Ngại chàng chê hấp tấp

Số gian nan không giàu

Ở phần kết bài thơ đã chuyển sang bạo dạn, công khai bộc lộ cảm xúc của mình:

Đường đây kia lên giời

Ta bước tựa vai cười

Yêu nhau, yêu nhau mãi

Đi, ta đi, chàng ơi

Ngun ngút khói hương vàngSay trong giấc mơ màng

Em cầu xin Giời Phật

Sao cho em lấy chàng

Chính sự chủ động trong việc tìm kiếm tình yêu của cô gái, khiến thi phẩm “Chùa Hương” bứt lên khỏi một bài thơ kể chuyện bình thường, trở thành một khúc tình ca đầy mê đắm. Vì thế, dù bài thơ được tác giả sáng tác đến nay đã hơn 80 năm (từ năm 1934), song ngôn ngữ của nhân vật trong thơ, đọc lên vẫn cứ tươi mới, sinh động như không hề có dấu vết của thời gian

Bài thơ “Chùa Hương thiếu em” của Dương Trọng Dật đã được Tô Thanh Tùng phổ nhạc cũng là một bài thơ hay, giàu cảm xúc về mối tình của chàng thi sĩ nhớ mãi về thuở yêu đắm say cô gái trẻ, hồn nhiên có bím tóc “đuôi gà” khi đến lễ hội chùa Hương:

Tứ thơ ai đánh mất rồi

Chùa Hương tàn hội ngậm ngùi khói sương

Nửa đời trở lại hành hương

Muốn qua bến đục không đường sao qua

Mơ chua, rau Sắng lại già

Còn đâu bím tóc đuôi gà, còn đâu?

Không còn bím tóc đuôi gà ở lễ hội chùa như năm xưa, chàng thi sĩ thấy nhớ nhung, bâng khuâng, trống vắng nhạt nhòa và bơ vơ chốn đông người:

Thiếu em nắng bỗng nhạt màu

Chùa tiên cơn gió lạc nhau vô tình

Thiếu em Hương Tích rộng thênh

Người chen vai vẫn thấy mình bơ vơ

Dù thế nhưng chàng vẫn mong ước tới ngày lễ hội và khẳng định tình yêu là vĩnh hằng, như sự trường tồn của đất trời vậy:

Bao giờ cho đến bao giờ

Hội chùa Hương để cho thơ tìm người

Nam thiên nhất động đâu rồi?

Ngàn năm chỉ có đất trời và em.

Bài thơ là một kỷ niệm đẹp và ý nhị, biểu hiện Thời còn trẻ, chúng tôi cũng hay tới chùa Hương. Là học sinh cấp ba trường huyện Thanh Oai (ngoại thành Hà Nội), cách chùa Hương không xa, nên hằng năm cứ đến cuối thu là chúng tôi lại rủ nhau hứng khởi đạp xe đi vãn cảnh chùa. Đường tới chùa thật đẹp. Hai bên đường là bãi mía, nương dâu xanh ngắt một màu. Tới Bến Đục, nhưng nước trong veo. Người đi chùa hồi đó rất ít, đa phần là người già, chứ không đông đúc như bây giờ. Con thuyền nhỏ, khoan thai lướt trên suối Yến đưa chúng tôi vào Thiên Trù, rồi ngược đà núi lên chùa Hương Tích, thi thoảng mới gặp người cùng đi hoặc người ngược xuống, lúc gặp nhau tay để trước ngực, miệng đọc câu: A Di Đà Phật, một cách cung kính lễ phép. Đối với chúng tôi đường núi lên chùa thật thanh tịnh, linh thiêng, huyền bí, và tĩnh lặng, nghe được cả tiếng chuông, tiếng mõ đâu đó vẳng ngân, đúng như Chu Mạnh Trinh đã viết về chùa Hương:

Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái

Lững lờ khe nước, cá nghe Kinh.

Mãi sau này, chúng tôi mới biết, cảnh, tình chùa Hương đẹp như vậy, quyến rũ như thế, nên nơi đây đã có nhiều bài thơ tình nổi tiếng (mà vì sự hạn hẹp của bài báo, chỉ xin trích dẫn đôi ba bài thơ tình tiêu biểu) đó cũng là một điều dễ hiểu.

 

 

 

 

Xem thêm những bài khác:

Chính khách-đời thường

Xem bức ảnh của Giản Thanh Sơn Chụp cuộc gặp...

Kỷ niệm không quên

Khi đăng bài về Tổng bí thư Lê Duẩn...

Trang Thế Hy- Ngòi bút quả tim

Nhân 100 năm ngày sinh nhà văn Nam bộ...

Thất trận trên sân nhà ?

Truyền thông đưa tin : Trong 9 tháng đầu...

Nguyễn Khắc Trường-lưỡi dao mổ nhân văn

Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Khắc Trường   Từ giã “...

Đốt lửa tìm trầm

Lúc mang ngành “ Quan hệ công chúng “...

Trang sử không tim

      Em lặn lội trên trang sách của cha ông Tìm...

Ngồi mát ăn bát vàng

Vậy là cái kim trong bọc đã lòi ra. Câu...

Mới nhất